Tịnh Độ Đại Kinh
Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 69
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
137
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa
Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm
năm mươi lăm, xem từ hàng thứ năm:
“Ư chư chúng sanh, thị
nhược tự kỷ” (đối với các chúng
sanh, coi như chính ḿnh), hai câu này là kinh văn. Kế đó
là lời chú giải: “Biểu
đồng thể chi bi. Nhân sở bảo ái, mạc quá tự
thân, linh thị chúng sanh như đồng tự kỷ, cố
năng cứu độ quần sanh tâm bất tạm xả”
(biểu thị ḷng đồng thể đại bi. Cái được
người đời yêu mến nhất không ǵ bằng
thân ḿnh. V́ xem chúng sanh như thân ḿnh, nên có thể chẳng
tạm bỏ cái tâm cứu độ quần sanh). Chúng ta xem câu này,
đây là tâm thái lợi tha của Bồ Tát, chúng ta phải
nên học tập. Thấy hết thảy chúng sanh và chính
ḿnh là cùng một Thể, cùng một tự tánh, cùng một
Pháp Thân, cùng một thanh tịnh viên minh thể, sự thừa
nhận này vô cùng trọng yếu. V́ sao? Đấy chính là “Phật tri Phật kiến”
như kinh Pháp Hoa đă nói. Thật vậy, chẳng giả,
tất cả hết thảy hiện tướng (h́nh
tướng được biến hiện) trong khắp
pháp giới hư không giới chẳng thật, giả trất,
chỉ có sự thừa nhận này là thật. Nếu quư vị
đă thật sự nhận biết, xin chúc mừng quư vị,
quư vị đă minh tâm kiến tánh, đă thành Phật.
Nay
chúng ta tập khí phiền năo rất nặng, xác thực là
biết chính ḿnh đang thuộc địa vị phàm phu,
có giải ngộ, nhưng chẳng chứng ngộ, đă
biết cách tu hành như thế nào, nhưng công phu chẳng
đắc lực, v́ sao không đắc lực? Không buông
phiền năo tập khí xuống được! Câu này nói dễ
dàng, làm thật khó khăn! V́ chẳng buông tự tư tự
lợi xuống được, chẳng buông tiếng
tăm, lợi dưỡng xuống được, chẳng
buông ḷng tham luyến ngũ dục, lục trần xuống
được, chẳng buông tham, sân, si, mạn xuống
được. Tu hành thời cổ dễ hơn hiện thời, v́
sao? Căn cội luân lư, đạo đức, nhân quả
đă được vun trồng sâu chắc từ bé, có thể
nói: Người nào trong xă hội cũng đều là
người tốt. V́ sao? Giáo dục thuở ấy là giáo
dục vun bồi căn cội, ai nấy đều
được học. Chuyện này chẳng dính dáng ǵ
đến biết chữ hay không, mà cũng chẳng dính
dáng đến chuyện có đi học hay không! Từ lúc
được sanh ra, cha mẹ, người lớn trong
nhà luôn biểu diễn trước mặt quư vị những
điều ngay thẳng, chẳng có ǵ sai trái. V́ thế, từ
nhỏ đă được học kỹ lưỡng. Xă
hội thuần phác, chẳng có nhiều thứ dụ dỗ,
mê hoặc như trong hiện tại, đều rất thật
thà, đều khiến cho [mọi người] thành thật,
bền vững, nên tu hành dễ dàng. Trong xă hội hiện
thời, tu hành hết sức khó khăn, trong tâm có tham, sân,
si, mạn, nghi. Đây là những cội rễ phiền năo
tập khí nghiêm trọng hơn bất cứ những
điều nào khác, Phật pháp sánh ví những phiền năo ấy
như năm cái rễ của địa ngục. Tham, sân,
si, mạn, nghi là năm cội rễ của địa ngục.
Trong tập khí th́ có oán, hận, năo, nộ, phiền. Bên
ngoài th́ có tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ
dụ dỗ, mê hoặc. Nói gộp lại, sẽ là “ma chưởng” (bàn tay ma), quư
vị có thể nhảy ra khỏi [bàn tay ma ấy] hay
chăng? Nếu chúng ta chẳng học tập kinh giáo hằng
ngày, thời thời khắc khắc đề cao cảnh
giác, một chút công phu bé tẹo ngần ấy c̣n chẳng
thể giữ được, nói chi đến tăng tấn?
V́ thế, nhận biết đồng thể đại bi
vô cùng quan trọng! Chúng sanh và ta có cùng một Thể. Biết
là một Thể, điều này được gọi là
luân lư, tức là luân lư trong nhà Phật. Đạo gia
cũng nói: “Trời đất
và ta cùng một căn, vạn vật và ta cùng một Thể”,
đó là luân lư của Đạo gia.
Kế
đó, [cụ Hoàng] nói: “Nhân sở
bảo ái, mạc quá tự thân”, [nghĩa là cái được]
con người yêu mến nhất là thân thể của chính
ḿnh. Nay thấy hết thảy chúng sanh và chính ḿnh là một
Thể, chẳng khác ǵ nhau! Thân thể chúng ta chẳng khỏe
mạnh, không thoải mái, chắc chắn là thời thời
khắc khắc luôn nghĩ tới, thời thời khắc
khắc mong được chữa lành, khôi phục sức
khỏe nhanh hơn một chút. Trong xă hội hiện thời,
bao nhiêu người đánh mất sức khỏe, nhất
là sức khỏe nơi phương diện tinh thần.
Đánh mất như thế nào? Do mê hoặc tự tánh bèn
đánh mất. Phật, Bồ Tát từ bi, đến giúp
đỡ chúng ta, giúp chúng ta trị lành, dùng phương
pháp ǵ? Giáo học, phá mê khai ngộ, đó là cứu độ
hết thảy chúng sanh. Đă giác ngộ th́ đều là
Phật, đều là Bồ Tát, hễ mê hoặc th́ là chúng
sanh. Chúng sanh khó thành Phật dường ấy, vấn
đề ở chỗ chẳng thể triệt để
buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống, khởi
tâm động niệm chẳng ĺa khỏi tiếng tăm,
lợi dưỡng. Có thể nhạt hơn người
khác một chút th́ được, nhưng mức độ
đậm nhạt hết sức bất ổn định!
Nh́n bề ngoài có vẻ khá nhạt nhẽo, nhưng hễ
danh lợi vừa hiện tiền, ngay lập tức nẩy
sanh biến hóa, chẳng thể giữ được! Do
nguyên nhân nào? Nay chúng tôi kể như đă hiểu: Do chẳng
có căn cội! Chúng ta tu hành mà chẳng có căn cội,
nên mới có hiện tượng này. Làm sao để có thể
giống như bị vua Ca Lợi cắt chặt thân thể
mà vẫn chẳng động tâm th́ mới có thể thành tựu.
Chẳng có mảy may hoài nghi, chẳng có mảy may ích kỷ,
chẳng có mảy may ganh tỵ nào! V́ sao? Hết thảy
chúng sanh và ta là một, không hai, người khác là chính ḿnh.
Người khác chiếm được một chút tiện
nghi của ta, ta chẳng oán hận, mà mang ḷng hoan hỷ.
Đó là Bồ Tát, chẳng phải là phàm nhân. Người
khác hủy báng, tổn hại, hăm hại ta, ta vẫn hoan hỷ,
chẳng có mảy may oán hận, v́ sao? [Những người
ấy đến giúp ta] nâng cao [cảnh giới] của
chính ḿnh, đến khảo nghiệm chính ḿnh. Đúng là một
Thể, ta mong giúp họ tăng cao cảnh giới, họ
cũng thường tăng cao cảnh giới của ta, bất
luận là hữu ư hay vô ư. Có khi làm quá lố, nhưng nếu
quư vị là người tu hành thật sự, sẽ chẳng
cảm thấy kẻ đó quá lố, mà c̣n cảm thấy
kẻ ấy làm chưa đủ. Do đó, trong cảnh giới,
chân, vọng, tà, chánh, đúng, sai, thiện, ác, thảy đều
chẳng tồn tại, một bầu thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác, chân tâm hoàn toàn hiển lộ. Nếu vẫn
là chưa buông tự tư tự lợi xuống, chưa
buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống, cái này
nh́n cũng không quen, cái kia nh́n cũng chẳng quen, vậy
là tu uổng công mất rồi, mảy may tăng trưởng
hay tiến bộ đều chẳng có! Trên thế gian, tối
đa là quư vị tăng trưởng một chút học vấn
do hỏi han, ghi nhớ, nhưng sau đó, phải tḥng thêm
một câu “chẳng đáng làm
thầy người khác”. Quư vị học được
một chút kiến thức Phật pháp thông thường bề
ngoài, chẳng học được Phật pháp thật sự!
Lục Tổ Huệ Năng đại sư đă nói rất
hay: “Phật pháp thật sự
chẳng liên quan đến văn tự, ngôn thuyết”. Nói
theo cách hiện thời, [học Phật] hoàn toàn là chuyển
biến tâm thái, quay tâm thái trở về. Tổ tiên đă
nói rất hay: “Con người
tánh vốn lành”, trở về cái Bổn Thiện là tu
hành thật sự, công phu ấy được gọi là
thật sự đắc lực.
Trong
giáo pháp Đại Thừa, đức Phật có nói: Hết
thảy chúng sanh đều do tâm hiện, thức biến.
Tâm là tự tánh của chính ḿnh. Thức là vọng tâm của
chính ḿnh. Chân và vọng cùng một Thể. Những khai thị
ấy trong giáo pháp Đại Thừa, câu nào cũng đều
là nói tới Thật Tướng của các pháp. Chúng ta nhận
biết từ chỗ này th́ mới coi như chánh xác. Thực
hiện ở nơi đâu? Thực hiện bằng chẳng
hề tạm bỏ tâm cứu độ chúng sanh. Quư vị
đă thật sự giác ngộ, chắc chắn là như vậy,
niệm niệm thấy những chúng sanh khổ nạn,
bèn chẳng nghĩ đến chính ḿnh, toàn tâm toàn lực
giúp đỡ những chúng sanh ấy quay đầu, giác ngộ.
Dùng phương pháp ǵ để giúp họ quay đầu?
Thực hiện từ chính ḿnh. Quư vị dạy người
khác, dạy người khác trong hiện thời th́ phải
sử dụng thân giáo. Thuở đức Phật tại
thế, Ngài giáo dục người ta bằng thân giáo, tức
là nêu gương cho quư vị thấy. Con người hiện
thời suy nghĩ sai lầm, khởi tâm động niệm
luôn luôn là tổn người, lợi ḿnh, chúng ta nêu
gương, khởi tâm động niệm đều là tổn
ḿnh, lợi người, dần dần mới có thể
khiến cho họ giác ngộ, khiến cho họ quay đầu.
Chứ nếu quư vị chẳng làm được [những
ǵ ḿnh đă nói] th́ c̣n làm sao được nữa! Xă hội
hiện thời là cạnh tranh, chúng ta phải nêu
gương lễ nhượng. Không chỉ là khiêm nhượng,
mà c̣n là lễ nhượng, chỗ nào cũng đều
nhường nhịn. Chúng sanh niệm niệm đều
mong cầu có được, chúng ta niệm niệm mong bố
thí, bỏ ra. Chúng sanh chẳng biết vâng giữ luật lệ,
cậy vào thông minh, tài trí của chính ḿnh để lách theo
lỗ hổng pháp luật, mong mỏi chiếm đôi chút
tiện nghi. Đó là cái tâm trộm cắp! Chúng ta vâng giữ
luật lệ nghiêm ngặt, nêu gương cho họ thấy.
Họ sợ bị thua thiệt, chúng ta thích chịu thiệt
tḥi, có thể hứng chịu thiệt tḥi. Đó là việc
làm của Bồ Tát, việc làm của Phật. Việc làm
của Phật, Bồ Tát luôn là tốt nhất, hoàn toàn
tương ứng với Tánh Đức, chẳng
tương ứng với chuyện nhân t́nh ấm lạnh
của người thế gian, mà hoàn toàn trái nghịch, v́
sao? Người hiện thời đă ĺa khỏi tiêu chuẩn
đức hạnh quá ư là xa! Đối với thời
cổ mà nói, tuy có lầm lỗi, vẫn chưa đến
nỗi hoàn toàn lệch lạc, kể như vẫn chẳng
cách xa tiêu chuẩn cho mấy. Hiện thời [cách biệt]
quá xa, nay gần như chẳng thấy tiêu chuẩn đâu
nữa. Hiện tượng này đáng sợ lắm; do
đó, tai nạn dấy lên. Chúng ta có thể tự ḿnh làm,
không chỉ nâng cao [cảnh giới] chính ḿnh, mà c̣n thật
sự giúp đỡ đại chúng, cứu độ quần
sanh, và cũng là giúp đỡ quả địa cầu
này.
Các
nhà khoa học cận đại cho biết: Vật chất
dẫu nhỏ đến mấy, [ngay như] các hạt
căn bản đều có thấy, nghe, hay, biết, đều
biết ư nghĩ của chúng ta, giống như trong thí nghiệm
với nước của ông Giang Bổn Thắng [đă chứng
tỏ điều ấy]; nhưng chúng ta đă nhận
được tin tức này rất sớm! Trong kinh Đại
Thừa đă nói rất nhiều, điều khó có là nó
đă được khoa học chứng minh. Mấy
năm trước, tiến sĩ Giang Bổn Thắng
đă dùng nước để chứng minh và đă chứng
minh được! Các nhà khoa học hiện thời cho biết:
Mỗi hạt cơ bản đều có thấy, nghe, hay,
biết, khiến cho chúng ta thật sự hiểu rơ ràng,
minh bạch Ngũ Uẩn tức Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức như kinh Bát Nhă đă nói. Không riêng ǵ hạt
cơ bản nhỏ nhoi ngần ấy có trọn đủ
Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Nó có sắc
tướng, đó là vật chất, nó lại có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, [đó là tinh thần, nên nó trọn
đủ] Ngũ Uẩn. Hiện thời, các nhà Lượng
Tử Lực Học cho biết: Tiểu quang tử tuy nhỏ
hơn hạt cơ bản nhưng cũng trọn đủ
Ngũ Uẩn. Trí huệ của Quán Thế Âm Bồ Tát, Bát
Nhă vốn trọn đủ trong tự tánh, “chiếu kiến Ngũ Uẩn
giai không”. Tâm Kinh đă dạy: “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Sắc
chính là Không, Không chính là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức
cũng lại như thế”. Nếu quư vị thật
sự hiểu chân tướng sự thật này, c̣n có ǵ chẳng
thể buông xuống? Thứ ǵ cũng đều buông xuống
được. V́ sao buông xuống? Năm xưa, khi tôi ở
Mỹ, đọc kinh Đại Bát Nhă. Kinh ấy có phân
lượng rất lớn, tôi nhớ bản đóng b́a cứng
gồm hai mươi bốn quyển. Tôi xem xong một
lượt, bèn viết mười hai chữ để làm
báo cáo tâm đắc: “Hết thảy
các pháp vô sở hữu, rốt ráo không,
chẳng thể được”.
Trong tâm quư vị c̣n có ǵ chẳng thể buông xuống
được? C̣n có ǵ vướng mắc? C̣n có ǵ ưu lự?
Quét sạch trơn! Đó là Thật Tướng của các
pháp, là pháp được cùng chứng đắc bởi hết
thảy chư Phật và Pháp Thân Bồ Tát, tâm khai ư giải.
Bát Nhă Tâm Kinh c̣n nói hai trăm sáu
mươi chữ, tôi dùng mười hai chữ để
tổng kết. Thế nhưng phiền năo tập khí
đúng là nặng nề, chẳng giả! Tôi chẳng đạt
được sự đại tự tại như trong
kinh Phật đă dạy, đó là ǵ? Phiền năo, tập
khí nhiễu loạn, tập khí khó đoạn. Nguyên nhân khiến
khó đoạn, nguyên nhân khiến chẳng đoạn
được là ǵ? Đối với chuyện này, chúng
tôi thừa nhận tŕnh độ vẫn chưa đủ!
Năm xưa, Chương Gia đại sư đă dạy
tôi: “Tu học Phật pháp là biết
khó, hành dễ”. Tôi tin tưởng câu ấy. Quư vị thấy
Huệ Năng đại sư ở trong phương
trượng thất của ḥa thượng Ngũ Tổ
Nhẫn, trong thời gian ngắn ngủi như vậy,
chúng tôi ước tính tối đa là hai tiếng đồng
hồ, Ngũ Tổ giảng cho Ngài nghe đại ư kinh Kim
Cang, giảng đến câu “ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Ngài liền khai ngộ.
Khai ngộ là ǵ? Ngài đă buông xuống. Vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước đều cùng buông xuống,
trong Phật pháp gọi điều này là “đốn xả, đốn đoạn, đốn
ngộ, đốn chứng”. Khi ấy, Huệ Năng
đại sư hai mươi bốn tuổi, chúng ta chẳng
thể không bội phục, Ngài đă thành Phật! Thích Ca
Mâu Ni Phật v́ chúng ta thị hiện dưới cội Bồ
Đề cũng là t́nh h́nh như vậy. Đức Phật
thị hiện vào lúc ba mươi tuổi. V́ sao chúng ta chẳng
thể bỏ? Do chẳng thấu suốt. Chẳng thấu
suốt kinh giáo. Chẳng thấu suốt là v́ chúng ta huân tập
chẳng đủ!
Đối
với sự huân tập, nh́n từ gương cổ thánh
tiên hiền, [ta thấy] thâm nhập một môn là tuyệt
đối chánh xác. Các Ngài chẳng có tạp niệm. Hễ
lan man quá nhiều thứ, chắc chắn bị phân tâm, chẳng
thể tập trung ư chí, chẳng thể tập trung tinh thần,
hiệu quả bị giảm bớt rất lớn! Tuy
nhiên, nh́n theo pháp thế gian, học rộng nghe nhiều th́
người ấy có kiến thức thông thường hết
sức phong phú, sách vở thế gian và xuất thế gian
đều đọc qua, chẳng có ǵ không biết, dường
như là khá lắm, vấn đề xuất hiện ở
chỗ nào? Người ấy chẳng kiến tánh, chẳng
đắc tam-muội. Nếu đắc tam-muội sẽ
khai ngộ, há c̣n phải học ư? Chẳng cần phải
học! Hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian đă thông suốt toàn bộ. Giống như Long Thọ
Bồ Tát, trong thời gian ba tháng, thông suốt toàn bộ hết
thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn
mươi chín năm. Đấy chính là sự giáo dục
chân chánh của đức Phật. Sự giáo dục của
đức Phật là dạy quư vị triệt để
quán thông, thông đến tự tánh, khiến cho quư vị
thành Phật, chẳng phải là khiến cho quư vị học
rộng nghe nhiều. Chẳng phải là làm chuyện ấy,
mà là dạy quư vị thâm nhập tam-muội,
đại triệt đại ngộ, quư vị mới có
năng lực giống như Phật “tâm cứu độ quần sanh chẳng hề tạm
bỏ”. Quư vị đă thông đạt vô lượng
pháp môn, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian chẳng có ǵ không thông đạt. Cầu điều
này! Hoàn toàn bảo quư vị hăy quay về nhập
Thường Tịch Quang, thật sự “quay đầu
chính là bờ”. V́ thế, thái độ này chính là khẳng
định “chúng sanh và quư vị là một Thể”. Hiện
thời, chúng sanh trên địa cầu gặp lắm tai nạn
ngần ấy, bản thân địa cầu có tai nạn,
[những chuyện này] đều là bất b́nh thường,
quư vị phải có tâm cứu độ và hành vi cứu
độ tích cực hơn bất cứ ai khác!
Tiếp
đó, [sách Chú Giải] nêu tỷ dụ, [tỷ dụ ấy]
được nói trong kinh Niết Bàn: “Như Niết Bàn Kinh kệ viết: Nhất thiết
chúng sanh thọ dị khổ, tất thị Như Lai nhất
nhân khổ” (Kinh Niết Bàn
có bài kệ rằng: “Hết
thảy chúng sanh hứng chịu các nỗi khổ khác nhau
th́ cũng đều như chính bản thân Như Lai
chịu khổ”). Mê, ngộ, thiện, ác, họa, phước, chúng
sanh và Phật cùng một Thể. Do đó, trong cuộc sống
hằng ngày, chúng ta có thể giống Như Lai, thấy
người khác có lầm lỗi tức là chính ḿnh có lầm
lỗi hay không? V́ sao? Ta chẳng nêu gương tốt
để ảnh hưởng đến người ấy,
ta làm chưa đủ viên măn. Cũng chính là như cổ
đại đức đă nói: “Điều
ǵ làm chẳng được, bèn quay lại xét ḿnh”, trọn
chẳng có ư niệm chỉ trích lỗi lầm của kẻ
khác, luôn [tâm niệm] chính ḿnh chưa làm tốt đẹp
đủ mức, nên chẳng thể thật sự cảm
hóa kẻ khác, khích lệ chính ḿnh hăy thêm gắng công ra sức
tu tập. Đối với hai câu kinh Niết Bàn ấy,
[xét ra] cổ thánh tiên hiền như Nghiêu, Thuấn, Vũ,
Thang đều có tâm thái ấy, thấy dân chúng khổ sở,
thấy nhân dân khổ sở, bèn thời thời khắc khắc
tự trách, chẳng trách móc người khác. Quư vị nói
xem họ chẳng phải là hóa thân của Phật, Bồ
Tát ư? Thuở đó, Phật pháp chưa truyền đến
Trung Hoa, có thể là Thích Ca Mâu Ni Phật chưa xuất thế.
Thích Ca Mâu Ni Phật sanh nhằm năm thứ hai
mươi bốn đời Châu Chiêu Vương, gần
như là cách thời Nghiêu, Thuấn, Đại Vũ,
Văn Vương một ngàn năm. Những điều
các Ngài nói, những hành vi biểu hiện đều là “hết thảy chúng sanh chịu
những nỗi khổ khác biệt, đều là một
ḿnh Như Lai chịu khổ”.
“Cố phổ nguyện chửng
tế phụ hà, giai độ bỉ ngạn” (V́ vậy, phổ nguyện “cứu vớt, gánh vác
cho đều vượt lên bờ kia”). V́ sao phải làm
như vậy? Trong kinh Phật đă có một câu: “Pháp nhĩ như thị”,
[nghĩa là] hết thảy các pháp vốn là như vậy,
chẳng có lư do, chẳng có suy tưởng, mong cầu, một
Thể mà! “Chửng giả, cứu
trợ dă. Tế giả, độ dă, thành dă, ích dă” (Chửng (拯) là cứu giúp, Tế (濟) là độ, làm cho hoàn thành, tạo
lợi ích). Có nhiều ư
nghĩa như vậy, cứu vớt chúng sanh, lợi ích
chúng sanh, hướng dẫn chúng sanh ĺa khổ được
vui. “Cố chửng tế tức
thị cứu độ chi nghĩa. Phụ giả, đảm
hà dă. Đại Pháp Cự Đà La Ni Kinh Phật ngôn: Bồ
Tát đảm giả, thệ nguyện hà phụ nhất
thiết chúng sanh xuất ly thế gian. Thí như trưởng
giả, gia nội phong nhiêu, đa chư trân bảo, duy hữu
nhất tử, dĩ ái niệm cố, tài bảo, lạc cụ
tất cấp dữ chi, vô hữu b́ quyện. Bồ Tát diệc
phục như thị, nhất thiết lạc cụ tận
giai dữ chi, năi chí linh nhập Vô Dư Niết Bàn, thị
cố danh vi hà phụ trọng đảm” (Do đó, “chửng tế” có nghĩa là cứu
độ. Phụ (負) là gánh vác. Trong kinh
Đại Pháp Cự Đà La Ni[1],
đức Phật dạy: “Trách nhiệm của Bồ Tát
là thệ nguyện gánh vác hết thảy chúng sanh xuất
ly thế gian. Ví như trưởng giả trong nhà giàu có,
dư dật, nhiều của cải quư báu, chỉ có
một con. V́ thương yêu con, nên của cải, vật
yêu thích đều trao hết cho con, chẳng hề mệt
nhọc. Bồ Tát cũng lại giống như vậy:
Hết thảy vật yêu thích đều trao hết cả
cho, cho đến khiến cho chúng sanh nhập Vô Dư
Niết Bàn. V́ vậy, gọi là gánh vác gánh nặng”). Trong
phần kinh văn này có nói đến một câu chuyện
nhỏ, nhằm khải thị người thật sự
học Phật hành Bồ Tát đạo. Từ chỗ này,
chúng ta thấy được nguyện hạnh của Bồ Tát. Phát nguyện
dễ dàng, nhưng thực hiện nguyện ấy chẳng
đơn giản. Thực hiện là thật, chẳng giả.
Cha mẹ yêu thương con cái, vào thời cổ ta thấy
chuyện như vậy rất nhiều, nhưng trong xă hội
hiện thời chẳng thấy. V́ nguyên nhân ǵ? Chẳng có
giáo dục luân lư. Chẳng có giáo dục luân lư th́ cha con chẳng
có t́nh thân. Cha mẹ chẳng yêu thương con cái, làm sao
con cái dấy lên ḷng yêu thương cha mẹ cho được?
V́ sao chẳng yêu thương? Từ nhỏ đă chẳng
vun bồi tốt đẹp đức hạnh cho con,
đó là chẳng yêu thương! Chăm sóc áo, cơm, những
tṛ vui chơi cho con, súc sanh cũng có thể làm được
những chuyện ấy! Quư vị thấy người hiện
thời, kẻ giàu có nuôi thú vật cưng, quả thật
có những trường hợp chăm bẵm những con
vật cưng c̣n hơn cả con cái của chính ḿnh, chẳng
đối xử tốt đẹp và quan tâm con cái bằng
những con vật cưng!
Xă hội
hiện tại thật sự nẩy sanh những vấn
đề mà cổ nhân chẳng thể nào tưởng
tượng được! Trong xă hội hiện tại,
đâu đâu cũng là như vậy, khắp mọi
nơi đều trông thấy, mà cũng chẳng biết
giáo dục là ǵ! Cái nghĩa gốc của chữ Giáo (教) trong tiếng Hán là “trưởng
thiện, cứu thất” (tăng trưởng điều
thiện, bổ cứu những khuyết
điểm), hiện thời chẳng có ai nói tới. Giáo
là ǵ, mấy ai có thể hiểu được? “Thất” (失) là lầm lỗi.
Bổ cứu những lầm lỗi như thế nào?
Tăng trưởng thiện tâm, thiện hạnh của
quư vị ra sao? Đó là giáo dục; trên hành, dưới bắt
chước theo. Phương thức thực hiện trọng
yếu nhất vẫn là thân giáo (giáo dục con người
bằng hành động gương mẫu). Một đứa
trẻ từ bé đă được quư vị nêu
gương tốt, nó trông thấy liền hiểu, học
theo. Điều này thật sự chẳng liên quan đến
chuyện biết chữ, chẳng liên quan đến học
hành. Trẻ thơ từ lúc lọt ḷng cho đến khi ba
tuổi, c̣n chưa có năng lực học chữ, mà
cũng chẳng có năng lực biết chữ, đó
chính là lúc vun bồi, đặt vững cơ sở giáo dục,
luân lư, đạo đức, nhân quả. Một trăm
năm trước, tức là một thế kỷ trước,
người Hoa nhà nào cũng đều biết chuyện
này. Sau khi nhà Măn Thanh vong quốc, ảnh hưởng của
nền giáo dục truyền thống đại khái c̣n kéo
dài hai mươi lăm năm. Nó được ǵn giữ
đầy đủ nhất ở nông thôn. Tại nông thôn,
giữ được khoảng hai mươi lăm
năm, nhưng tại đô thị [giữ
được nền giáo dục truyền thống] đại
khái ít hơn mười năm [so với nông thôn], cũng
có nghĩa là: Thông thường, tại đô thị, trong
ṿng mười lăm năm, vẫn c̣n có thể thấy [ảnh
hưởng của nền giáo dục truyền thống].
Sau mười lăm ấy, [ảnh hưởng đó] dần
dần nhạt mỏng đi. Kể từ thời chiến
tranh giữa Trung Hoa và Nhật Bản, sau tám năm kháng chiến,
tại nông thôn chẳng c̣n [ảnh hưởng ấy nữa].
Do đó, nay chúng ta hiểu biết tầm trọng yếu
[của nền giáo dục truyền thống], nhưng khôi
phục nó rất ư là khó! Khôi phục bằng cách nào? Nền
giáo dục truyền thống chẳng thể khôi phục
th́ xă hội vĩnh viễn chẳng thể nào an định,
đây là đạo lư nhất định. V́ thế, cổ
nhân hiểu chuyện này, nhưng người hiện thời
rất thờ ơ, mà cũng chẳng tin tưởng!
Trong
kinh giáo, Phật, Bồ Tát đă dùng tỷ dụ để
nói rơ, Bồ Tát đối với hết thảy chúng sanh
đă dốc trọn công sức, chẳng có mảy may ư niệm
đ̣i hỏi, mong mỏi chúng sanh báo đáp các Ngài chút ǵ, chẳng
có ư niệm ấy. Người hiện thời có thể
làm chuyện này hay không? Người nhất tâm mong thành Phật
sẽ làm được, nhưng kẻ c̣n tham luyến thế
gian này sẽ quyết định chẳng làm được.
Chỉ có người nhất tâm mong làm Phật là có thể
làm được. V́ sao? Người ấy biết hết
thảy các pháp đều là Không, ngay cả thân thể của
chính ḿnh cũng là rỗng không, vật ngoài thân chẳng có
ǵ là của chính ḿnh. Người ấy đă hiểu chân
tướng sự thật này, nên dần dần bèn phóng
khoáng, sẽ có thể làm được. Nếu chẳng
thật sự liễu giải, [tức là] chẳng liễu
giải thấu triệt chân tướng sự thật
này, sẽ rất khó! “Rất khó” cũng có nghĩa là vượt
thoát lục đạo luân hồi khó lắm! Chẳng thể
buông xuống, sẽ không thoát khỏi luân hồi. Bồ Tát
giúp đỡ chúng sanh, mục tiêu thật sự là ǵ? Khiến
cho họ nhập Vô Dư Niết Bàn. Vô Dư Niết Bàn là
địa vị ǵ? Dư (餘) là tập khí. Tập
khí vô thỉ vô minh đều đoạn hết sạch
th́ gọi là Vô Dư Niết Bàn, thuộc địa vị
Diệu Giác, trở về Thường Tịch Quang viên măn.
V́ thế, điều này được gọi là “hà phụ trọng đảm”
(荷負重擔: gánh vác gánh nặng). Bốn chữ ấy
danh phù hợp thực, giúp đỡ bất cứ chúng sanh
nào đều phải giúp họ trở về Đại
Bát Niết Bàn th́ nguyện tâm cứu độ của Bồ
Tát mới xem như viên măn.
“Thượng dẫn kinh văn,
thâm hiển ‘chửng tế phụ hà’ chi nghĩa. Độ
giả, đáo dă. Bỉ ngạn giả, Niết Bàn dă.
Đại Luận thập nhị viết” (Đoạn kinh vừa dẫn trên
đă hiển thị sâu sắc ư nghĩa “cứu
vớt, gánh vác”. “Độ” (度) là đến
nơi. “Bỉ ngạn” (彼岸: bờ kia) là Niết
Bàn. Đại Luận, quyển mười hai đă nói), Đại Luận
là Đại Trí Độ Luận. “Nhược năng trực tiến bất thoái,
thành biện Phật đạo, danh đáo bỉ ngạn,
biểu đại sĩ phổ độ, tất linh nhất
thiết chúng sanh chứng nhập Vô Dư Niết Bàn nhi hậu
dĩ dă” (“Nếu có thể thẳng tiến chẳng lui, hoàn
thành Phật đạo th́ gọi là đáo bỉ ngạn
(đạt đến bờ kia)”, ư nói: Đại Sĩ phổ độ, làm cho
hết thảy chúng sanh chứng nhập Vô Dư Niết
Bàn rồi chính ḿnh mới chứng Niết Bàn). Trong thế gian,
Bồ Tát chẳng làm chuyện ǵ khác, mà làm chuyện như
vậy đó, chẳng mệt, chẳng ngán, vĩnh viễn
chẳng ngơi nghỉ!
Chúng
ta lại xem mấy câu kinh văn kế đó: “Tất hoạch chư Phật
vô lượng công đức, trí huệ thánh minh bất khả
tư nghị” (Đều
đạt được vô lượng công đức
của chư Phật, trí huệ thánh minh chẳng thể
nghĩ bàn). [Hai câu ấy] được chú giải như sau: “Dĩ thượng nhị cú, biểu
chư đại sĩ cụ túc phước trí nhị
nghiêm” (hai câu trên đây biểu thị các vị đại
sĩ phước trí nhị nghiêm), “nghiêm” (嚴) là trang nghiêm (莊嚴). [Phước trí nhị nghiêm là] phước trang
nghiêm và huệ trang nghiêm. “Vị
tề quả vị, năi tùng quả hướng nhân chi
đại Bồ Tát, hàm đắc Như Lai chi phước
đức trang nghiêm. Trí huệ thánh minh bất khả
tư nghị, minh đại sĩ hàm đắc Như Lai
chi trí huệ trang nghiêm” (Là bậc Bồ Tát có địa vị ngang
với quả vị, nhưng từ quả hướng
nhân, đều đă đắc phước đức
trang nghiêm của Như Lai. “Trí huệ thánh minh chẳng
thể nghĩ bàn” là nói các Đại Sĩ đều đă
chứng đắc trí huệ trang nghiêm của Như Lai), chúng ta xem đoạn
này. Đây là ǵ? Thành tựu người khác vốn là thành tựu
chính ḿnh. Chính ḿnh đă thành Phật, sau khi đă thành Phật,
phước huệ sẽ đạt tới viên măn rốt
ráo, quư vị phải phổ độ chúng sanh. Nếu chẳng
thể phổ độ chúng sanh, phước huệ của
quư vị sẽ chẳng thể viên măn. Phước huệ
viên măn là chuyện tự nhiên, không nhất định do
tâm ta mong tưởng; quả thật là trong cảnh giới,
Bồ Tát chẳng khởi tâm, không động niệm.
Chúng ta biết, đối với bốn mươi mốt
phẩm vô minh, tức là tập khí vô minh, Ngài chưa đoạn
bốn mươi mốt phẩm tập khí vô minh, nhưng
Ngài có mong đoạn hay không? Ngài cũng chẳng mong! Nếu
Ngài nghĩ tưởng, mong muốn, liền bị đọa
lạc, v́ Ngài lại khởi tâm động niệm. Pháp
Thân Bồ Tát chẳng khởi tâm, không động niệm,
lẽ đâu Ngài mong đoạn [tập khí vô minh], hay là
mong muốn, hy vọng phước huệ viên măn? Chẳng
có ư niệm ấy, thế mà bốn mươi mốt phẩm
vô minh tự nhiên đoạn sạch viên măn. Do đó, sau khi
đă đại triệt đại ngộ, sau khi minh tâm
kiến tánh, các Ngài trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm,
chúng ta thường gọi cơi ấy là Nhất Chân pháp giới.
Trụ bao lâu? Ba đại A-tăng-kỳ kiếp. V́ sao phải
trụ lâu như thế? Phải qua thời gian dài như
thế th́ mới chẳng c̣n tập khí. Ngài trụ trong cơi
Thật Báo lâu như thế để làm ǵ? Tánh Đức
tự nhiên lưu lộ, mười phương thế giới,
khắp pháp giới hư không giới, bất cứ chỗ
nào chúng sanh có cảm, Ngài bèn có ứng. Chúng sanh cảm th́ có
hiển cảm (顯感: cảm rơ rệt) và có minh cảm
(cảm ngấm ngầm). Minh cảm (冥感) là chúng sanh có cầu
Phật, Bồ Tát, nhưng chính họ chẳng biết, v́
ư niệm rất vi tế, chính họ chẳng cảm nhận
được, nhưng Phật, Bồ Tát nhận biết,
nhận được tin tức ấy. Hễ nhận
được, các Ngài liền đến giúp đỡ quư
vị, v́ sao? Quư vị có duyên với các Ngài. Do đó, phải
biết: Nay chúng ta kết duyên với hết thảy mọi
người, kết duyên với hết thảy chúng sanh,
thiện duyên cũng thế, mà ác duyên cũng vậy, duyên
b́nh đẳng, bất luận thiện hay ác, chỉ cần
là có duyên, khi thành Phật, họ nhất định đến
độ quư vị. Quư vị có duyên với họ, nên quư vị
vừa phát ra tin tức, họ sẽ nhận được
ngay lập tức!
Chưa đoạn
tập khí phiền năo, sẽ có thiện duyên và có ác duyên. Nếu
đoạn sạch tập khí phiền năo, thiện duyên và
ác duyên thảy đều biến thành pháp duyên. Trong tự
tánh, chẳng thể t́m được thiện hay ác. Không
chỉ là chẳng có thiện, ác, mà chân, vọng cũng chẳng
có, tà, chánh cũng chẳng có, đó là nói theo Nhất Chân
pháp giới. Trong mười pháp giới th́ có, trong mười
pháp giới có những thứ thật, giả, tà, chánh, thiện,
ác rất rơ ràng, nhưng cơi Thật Báo Trang Nghiêm chẳng có
chuyện ấy, chúng ta phải biết điều này.
Đấy là nói trí huệ viên măn trong tự tánh thấu lộ,
mà cũng là như đức Phật đă nói trong kinh Hoa
Nghiêm: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”. Như Lai là tự tánh, trí huệ, đức
năng, và tướng hảo trong tự tánh chẳng có mảy
may chướng ngại nào, thảy đều hiển thị.
Hiển ở nơi đâu? Hiển lộ khi người ấy
ứng [theo sự cảm] của chúng sanh. Chúng sanh có cảm,
người ấy bèn có ứng, nên dùng thân ǵ để
đắc độ, bèn hiện thân ấy, nên dùng pháp môn
ǵ để giáo hóa, bèn dùng pháp môn ấy, quyết định
chẳng có suy xét. Trong khoảng thời gian ấy, chúng ta
giả thiết [khoảng thời gian ấy] là ba đại
A-tăng-kỳ kiếp như kinh đă nói, vị ấy trọn
chẳng khởi tâm động niệm. Khởi tâm động
niệm c̣n chẳng có, há có phân biệt, chấp trước?
Toàn là tự tánh, tự nhiên. Chúng ta dùng danh từ ǵ để
h́nh dung nó? Tự nhiên vận hành, chẳng do ai làm, chẳng
có bất cứ sức mạnh nào thao túng, chẳng có! Hoàn
toàn là tự nhiên, nên chúng ta chỉ có thể nói là Tánh Đức
tự nhiên lưu lộ. Trong kinh Phật có một danh từ
rất đơn giản [để diễn tả điều
này]: “Pháp nhĩ như thị”.
Từ ngữ ấy rất hay, pháp vốn là như vậy.
Điều
này biểu thị các vị Pháp Thân đại sĩ trọn
đủ phước huệ nhị nghiêm. Chúng ta ca ngợi
Phật, quư vị thấy khi quy y Phật, trong lời thề,
chúng ta đọc: “Quy y Phật,
Nhị Túc Tôn”. Ai nấy đều đă đọc cả
rồi. Nhị Túc là ǵ? Là huệ và phước, tức
phước trí, chính là “phước
trí nhị nghiêm” ở chỗ này. Đạt đến
quả vị rốt ráo, phước viên măn, trí viên măn, th́
gọi là Lưỡng Túc Tôn, chẳng khiếm khuyết mảy
may. Đẳng Giác Bồ Tát c̣n có chút khiếm khuyết, vẫn
chưa đạt tới viên măn, nhưng địa vị
Diệu Giác đă viên măn. Địa vị ngang với Phật
quả th́ địa vị ấy đă đạt đến
Diệu Giác, tức là quả vị Phật rốt ráo. Những
vị ấy tuyệt diệu, chính là hàng đại Bồ
Tát từ quả hướng đến nhân, các Ngài chẳng
ứng hóa từ cơi Thật Báo, mà từ đâu ứng hóa?
Các Ngài ứng hóa từ cơi Thường Tịch Quang. Ư
nghĩa này hay lắm. Nếu không, rất nhiều người
hoài nghi: Trở về Thường Tịch Quang bèn chẳng
khởi tác dụng. Cơi Thường Tịch Quang đă chẳng
phải là tinh thần, mà cũng chẳng phải là vật
chất, há chẳng phải là không có tác dụng ǵ hay sao?
Được rồi! Tôi nói cho quư vị biết: Trong
Thường Tịch Quang có ứng. Thường Tịch
Quang là Nhị Túc Tôn viên măn rốt ráo, tức Diệu Giác!
Theo định nghĩa trong Phật pháp, chữ Diệu (妙) thường được giảng là “chẳng phải
có, chẳng phải không”. Quư vị chẳng thể nói nó là
có, mà cũng chẳng thể nói là “chẳng có”. Đó là
Thường Tịch Quang. Quư vị thấy khi Huệ
Năng đại sư kiến tánh đă nói năm câu chẳng
phải có, chẳng phải không: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh”,
tự tánh chưa hề bị ô nhiễm. Chỉ cần có
hiện tướng, bất luận là hiện tượng
vật chất hay hiện tượng tinh thần, đều
có thể bị ô nhiễm. Nó chẳng phải là vật chất,
mà cũng chẳng phải là tinh thần, nên nó chưa hề
có hiện tượng ô nhiễm, vốn tự thanh tịnh.
Câu thứ hai là “vốn chẳng
sanh diệt”, đây là Đại Bát Niết Bàn, chẳng
có sanh diệt. Trong tôn giáo của ngoại quốc có nói “sống
đời đời”, nhưng điều này c̣n cao hơn
chuyện sống đời đời v́ chẳng có sanh diệt.
Câu thứ ba là “vốn tự
trọn đủ”, nó chẳng khiếm khuyết mảy
may. Bất luận là trí huệ, đức năng, hay
tướng hảo, hết thảy đều hoàn toàn trọn
đủ. [Câu thứ tư là] “vốn
chẳng dao động”, nói rơ: Vọng tâm của chúng
sanh trong mười pháp giới đều là động.
Khoa học hiện đại nói là hiện tượng dao
động. Hiện tượng dao động th́ [từ
địa ngục giới] cho đến Phật pháp giới
trong mười pháp giới đều có hiện tượng
này, nhưng trong cơi Thật Báo chẳng có hiện tượng
này. Câu cuối cùng là “có thể
sanh ra vạn pháp”. Một niệm bất giác sẽ có thể
hiện ra A Lại Da. A Lại Da có thể biến. Tự
tánh có thể sanh, có thể hiện, c̣n A Lại Da có thể
biến. Tự tánh là chân tâm của chính ḿnh, A Lại Da là vọng
tâm của chính ḿnh. Vọng sanh từ chân, điều này
đă được các khoa học gia hiện thời phát
hiện. Hiện tượng tinh thần và hiện tượng
vật chất do đâu mà có? Trong Không sanh ra Có, được
gọi là “vô trung sanh hữu”.
Vô là ǵ? Vô là tự tánh, v́ tự tánh thật sự chẳng
phải là vật chất, chẳng phải là tinh thần,
nên lục căn của quư vị chẳng thể duyên
được! Vật chất th́ năm căn trước
có thể duyên đến, tức là mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân có thể duyên đến, tiếp xúc
được [vật chất]. Tinh thần th́ ư căn có
thể tiếp xúc được. Nhưng nó (tự tánh) chẳng
phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh
thần, nên Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức của
chúng ta đều không duyên được. V́ vậy, nói là “vô trung sanh hữu”. Các khoa học
gia đă có thể phát hiện cảnh giới này, điều
này rất khó có! Chứng tỏ lời Phật nói chẳng
giả, ba ngàn năm sau các khoa học gia đă giúp Ngài chứng
thực; nhưng các khoa học gia chẳng thể kiến
tánh, nguyên nhân v́ sao? Do họ chẳng buông vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước xuống! Hễ buông xuống
liền kiến tánh. Sau khi đă buông xuống, trí huệ và
đức tướng bèn hiện tiền. V́ thế, trong
Phật pháp, các nhà khoa học ấy được gọi
là giải ngộ, chưa chứng đắc, [chỉ là]
giải ngộ. Giải ngộ bèn đạt tới cảnh
giới rất cao ấy, nhưng nếu lại tiến
cao hơn th́ chẳng thể, v́ tiến cao hơn sẽ là
kiến tánh. Kiến tánh th́ phải thật sự buông xuống.
Chẳng buông xuống, chẳng thể kiến tánh. Do
đó, câu “từ quả hướng
đến nhân” có ư nghĩa rất sâu, nói cho chúng ta biết:
Thường Tịch Quang là một thể hữu cơ, sống
động, chẳng phải là chết ngắc, nó có thể
hiện hết thảy các tướng. Nó thứ ǵ cũng
đều chẳng có, nhưng có thể hiện hết thảy
các tướng, có thể sanh ra muôn pháp.
Những
vị đại Bồ Tát này đều đắc Như
Lai phước đức trang nghiêm. “Trí huệ thánh minh chẳng thể nghĩ bàn” là
nói rơ các vị đại sĩ đều đắc trí huệ
trang nghiêm của Như Lai. Trên đây là phước đức
trang nghiêm và trí huệ trang nghiêm, “trang
nghiêm” ở đây là nói đến sự viên măn. Chúng ta
biết, theo kinh Hoa Nghiêm, từ Sơ Trụ trở lên
đều chứng đắc [phước trí nhị
nghiêm]. Tuy chưa viên măn, nhưng đă sử dụng
được, chẳng có chút chướng ngại nào. Do
trí huệ và đức tướng đều chẳng có
chướng ngại, nên Sơ Trụ Bồ Tát có thể
hiện thân Phật, nên dùng thân Phật để độ
được, liền hiện thân Phật để thuyết
pháp, Sơ Trụ đă làm được. Kế đó, sách viết: “Tịnh
Ảnh dữ Chân Giải, Hợp Tán chư gia, giai đồng
thử thuyết” (ngài Tịnh Ảnh và tác giả các sách
Chân Giải, Hợp Tán đều cùng nói như vậy).
Đối với điều này, tổ sư đại
đức đều cùng nói giống như nhau.
“Thánh giả, chánh dă” (Thánh là
chánh), đây là giải thích chữ Thánh. “Hựu Triệu công viết: Trí huệ, Thể; thánh
minh, Dụng. Vô sự bất chiếu vị chi Thánh. Bồ
Tát quyền thật linh chiếu, bất khả dĩ ngôn
tư nghĩ nghị kỳ h́nh dung, cố vân bất khả
tư nghị” (Ngài
Tăng Triệu nói: “Trí huệ là Thể. Thánh minh là
Dụng. Không sự ǵ chẳng chiếu là Thánh. Bồ Tát
Quyền Thật linh chiếu, chẳng thể dùng ngôn
ngữ và suy nghĩ để suy đoán, bàn luận h́nh
dung của nó, nên bảo là bất khả tư nghị”).
Tiếp đó, [cụ Hoàng] giải thích: “Triệu công chi ư vi: Trí huệ thị bản thể,
thánh minh thị diệu dụng. Nhất thiết sự
giai năng chiếu liễu
thông đạt, danh chi vi Thánh. Bồ Tát chi Quyền Trí dữ
Thật Trí, sở sanh chi linh minh chiếu dụng, chúng sanh
phàm t́nh tuyệt bất năng giải, cố viết bất
khả tư, nhất thiết ngữ ngôn bất năng biểu
đạt, cố viết bất khả nghị” (Ư của Triệu công là: Trí
huệ là bản thể, thánh minh là diệu dụng,
đều chiếu rơ, thông đạt được
hết thảy sự, nên gọi là Thánh. Thật Trí và Quyền
Trí của Bồ Tát phát sanh diệu dụng sáng tỏ
vằng vặc để chiếu soi. Chúng sanh do phàm
t́nh nên trọn chẳng thể hiểu nổi [diệu
dụng ấy], nên bảo là “bất khả tư”. V́
hết thảy ngôn ngữ chẳng thể diễn
đạt nổi, nên nói là “bất khả nghị”), chúng
ta xem tới đây. Theo Tăng Triệu đại sư[2],
trí huệ là Thể. Đối với tầng cấp này,
tức là tầng cấp của hàng đại Bồ Tát,
Định và Huệ là một, chẳng hai. Huệ là Thể,
Định là Dụng, [hoặc nói cách khác], Định là
Thể, Huệ là Dụng, sống động, chẳng khô
khan. Thể và Dụng dùng lẫn cho nhau, quư vị nói kiểu
nào cũng thông suốt. Không sự ǵ chẳng chiếu,
đó là trí huệ. Do vậy, kinh Bát Nhă nói “chiếu kiến”, danh
từ này được nói rất nhiều, người
thế gian chúng ta nói là “khán kiến”,
tức là thấy bằng mắt, hoặc quán kiến (quan
sát thấy). Trong giáo pháp Đại Thừa nói là “chiếu kiến”, Tâm Kinh nói “chiếu kiến Ngũ Uẩn
giai Không”. Câu này đă được các nhà khoa học hiện
đại chứng minh, Ngũ Uẩn đúng là rỗng
không, các nhà khoa học đă nói rất hay! Vật chất
là ǵ? Ư niệm tích lũy liên tục sanh ra huyễn tướng,
nói rất hay! Trước kia, chúng tôi học Duy Thức,
trong Duy Thức nói tới Kiến Phần và Tướng Phần:
Nếu Kiến Phần trông thấy, ngay khi đó, sẽ
phát sanh Tướng Phần. Cách nói này khiến cho chúng ta chẳng
hiểu rơ từ ngữ. Cổ nhân nói như thế, chúng
tôi cũng nói như thế th́ chẳng rơ ràng. Kiến th́ nhất
định là phải thấy, đă thấy bèn có huyễn
tướng. Ví như quư vị trừng mắt nh́n, trong
hư không chẳng có thứ ǵ, nhưng quư vị nhất
định muốn thấy. Trừng mắt nh́n hồi
lâu, mỏi mắt, [sẽ thấy] trong không trung thật sự
hiện ra tướng [hoa đốm lăng xăng]. Dùng phương pháp ấy để
nói th́ chẳng hợp khoa học[3],
cách nói của các nhà khoa học hay hơn. Sau này, hễ chúng
ta nói đến chuyện này (Kiến Phần sanh ra Tướng
Phần), bèn có thể dùng cách nói của các nhà khoa học
th́ sẽ chánh xác. Có thể thấy là cổ nhân dùng tỷ
dụ ấy v́ họ chưa kiến tánh, nên cũng chẳng
thấy. Nếu họ đă kiến tánh, sẽ nói rơ ràng,
[họ nói lờ mờ] v́ chính họ chưa kiến tánh.
Trí huệ khởi tác dụng là thánh minh.
Không
sự ǵ chẳng chiếu th́ gọi là Thánh, năng lực
thấy rất rộng: Trọn khắp pháp giới hư
không giới. V́ thế, nếu nói thật sự, nói chân thật,
tức là nói chân thật theo giáo pháp Đại Thừa, hoàn
toàn là cảnh giới của Pháp Thân Bồ Tát. Các Ngài chẳng
có thời gian, phải biết điều này: Tuyệt
đối chẳng có quá khứ, mà cũng chẳng có vị
lai, chỉ có ngay trong hiện tại. Không chỉ chẳng
có thời gian, mà c̣n chẳng có không gian; không gian cũng chẳng
tồn tại. Không gian chẳng tồn tại th́ khoảng
cách chẳng c̣n nữa, [nói tới] không gian là [nói tới]
khoảng cách. Tây Phương Cực Lạc thế giới
ở nơi đâu? Ngay tại nơi đây. Thế giới
Hoa Tạng của Tỳ Lô Giá Na Phật ở chỗ nào? Ngay
tại nơi đây. Do vậy, nói chân thật cùng quư vị,
sẽ là ngay trong lúc này, mười đời xưa nay chẳng
ĺa một niệm. Một niệm hiện hữu, niệm
niệm đều là một niệm ngay trong lúc này. Đấy
là nói lời chân thật, nói ra chân tướng với chúng
ta, một niệm là thật. Do đó, quư vị thấy
kinh Phật mở đầu bằng: “Như thị ngă văn, nhất thời”, đức
Phật nói lời chân thật, “nhất
thời” là thật. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, giảng
kinh Vô Lượng Thọ, có “tại”
hay không? Có, nhất thời! Nếu chúng ta đạt tới
nhất thời, sẽ thấy Thích Ca Mâu Ni Phật đang
giảng kinh. Thời gian chẳng có, ba ngàn năm trước
hay ba ngàn năm sau chi nữa đều chẳng có, ở
ngay trong lúc này, quư vị thấy núi Linh Thứu ở ngay
nơi đây! Đời Đường, Trí Giả đại
sư niệm kinh Pháp Hoa, niệm đến phẩm Dược
Vương, lăo nhân gia nhập Định, thấy Thích Ca
Mâu Ni Phật giảng kinh Pháp Hoa ở núi Linh Thứu, thấy
vẫn c̣n có chỗ trống, bèn ngồi nơi đó nghe giảng
một buổi. Sau khi xuất Định, kể với mọi
người: Hội Linh Sơn chưa giải tán, Ngài tham
gia, nghe giảng ở đó một buổi.
Do vậy, trong
kinh, đức Phật thường nói: “Hết thảy các pháp chẳng ĺa tự tánh”. Lại
nói “ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài
pháp chẳng có tâm” đều nhằm tiết lộ chân
tướng này. Chúng ta nghe chẳng hiểu, dường
như hiểu mà chẳng hiểu, nửa tin, nửa ngờ.
Nếu thật sự hiểu, không khẩn yếu chi! Nếu
chẳng hiểu, không sao cả! Hăy cứ nghe hằng ngày,
cổ nhân nói: “Đọc sách
ngàn lượt, tự thấy ư nghĩa”. Chúng ta ngốc
hơn người khác, người ta nghe một ngàn lượt,
chúng ta nghe một vạn lượt bèn hiểu, v́ sao? Huân
tập thành chủng tử, huân tập thành căn, căn ấy
sẽ sanh ra sức mạnh. Huân tu lâu dài, phải huân tập
nó thành chủng tánh của ta, nó sẽ khởi tác dụng.
Đó cũng là một phương pháp để minh tâm kiến
tánh trong tám vạn bốn ngàn pháp môn. Phải biết: Tám vạn
bốn ngàn pháp môn đều là các phương pháp để
minh tâm kiến tánh, phương pháp nào thích hợp với
ta, ta bèn dùng phương pháp ấy. Học rộng nghe nhiều
cũng là một phương pháp, căn tánh mỗi người
khác nhau. Trong xă hội hiện tiền, nay là thời Mạt
Pháp, lại c̣n là lúc Phật pháp suy vi đến cùng cực.
Khắp thế giới sơ sót giáo dục luân lư, đạo
đức. Có thể nói luân lư đạo đức
tương ứng với giáo dục tự tánh, nhưng
đă bỏ mất. Nhà Phật có một thuật ngữ
là “xứng tánh”, nhưng hiện
thời đă hoàn toàn mê mất tự tánh. Mê gần như
nghiêm trọng đến mức một trăm phần
trăm, cho nên học Phật đặc biệt khó
khăn! Phương pháp này của Tịnh Tông được
mười phương chư Phật giới thiệu, chẳng
riêng ǵ một ḿnh Thích Ca Mâu Ni Phật, mà là mười
phương chư Phật giới thiệu. Trong hoàn cảnh
khó khăn đến tột cùng, các pháp môn khác đều bị
chướng ngại trùng trùng, rất khó học tập,
pháp môn này đơn giản. Thậm chí quư vị chẳng
cần đọc kinh, chỉ là một câu Phật hiệu.
Chúng
ta đang ở Hương Cảng. Năm xưa, tôi nghe
lăo pháp sư Đế Nhàn thường kể với mọi
người: Lăo ḥa thượng Đế Nhàn có một
người đồ đệ làm thợ vá nồi.
Người này là bạn cùng chơi đùa thuở bé của
pháp sư Đế Nhàn, tuổi tác chẳng chênh lệch
cho mấy, ở trong thôn trang. Sau khi trưởng thành, gia cảnh
nghèo hèn, chẳng có cơ hội đi học, bèn học một
nghề thủ công là vá nồi, vá chén, dùng nghề mọn ấy
để kiếm sống hết sức khổ sở. Thuở
bé tôi thường thấy thợ vá nồi gánh một gánh
nhỏ đi rảo trong làng vá nồi, vá chén. V́ thế, khi
Ngài (pháp sư Đàm Hư) nói chữ ấy, tôi hiểu
ngay, ông ta sống bằng nghề đó. Ông ta cảm thấy
cuộc đời quá khổ, thấy bạn xuất gia,
xuất gia cũng khá, bèn t́m đến, thưa với ngài
Đế Nhàn, ông ta cũng muốn xuất gia, bái ngài Đế
Nhàn làm sư phụ. Pháp sư Đế Nhàn nói: “Không
được! Ông cứ làm nghề của ḿnh đi, xuất
gia há phải dễ dàng! Ông xuất gia, chậm lụt
như vậy, mà cũng chẳng biết chữ, đầu
óc chậm chạp, đoán chắc là học kinh sám, Phật
sự, gơ pháp khí, xướng niệm đều học
không nổi, tay chân vụng về! Học giảng kinh th́ lại
chẳng biết chữ”. V́ thế, cự tuyệt ông ta.
Nhưng ông ta vẫn một mực nằn ń, chẳng chịu
đi, không cho ông ta xuất gia cũng không được.
Cụ Đế Nhàn chẳng c̣n cách nào, bèn đặt
điều kiện với ông ta. Sư nói: “Nếu ông thật
sự muốn xuất gia, tôi có mấy điều kiện,
ông có thể làm được th́ cho phép ông xuất gia”. Ông
ta thưa: “Được! Nếu tôi bái thầy làm sư
phụ, thầy dạy tôi điều ǵ, tôi cũng đều
làm theo”. Lăo pháp sư Đế Nhàn bất đắc dĩ
cho ông ta xuống tóc. Chẳng ở trong chùa được,
v́ ở trong chùa có rất nhiều quy củ. Ông ta cũng
đă bốn mươi mấy tuổi rồi, những tật
xấu, tập khí chẳng dễ ǵ sửa được.
V́ thế, đến vùng quê, t́m cho ông ta một ngôi chùa nhỏ,
chẳng có ai ở, là một ngôi chùa hư nát, cho ông ta ở
đó. Dạy ông ta niệm một câu Nam-mô A Di Đà Phật.
Dạy ǵ khác ông ta cũng không hiểu, bèn dạy ông ta niệm:
“Ông hăy niệm câu này, suốt
ngày niệm câu Nam-mô A Di Đà Phật. Niệm đă mệt
bèn nghỉ ngơi, nghỉ khỏe khoắn rồi lại
niệm tiếp”. Làm như vậy sẽ nhẹ nhàng,
thong dong, chẳng có áp lực ǵ. Chẳng phân biệt ngày,
đêm, hễ niệm đă mệt bèn nghỉ ngơi, hễ
nghỉ đă khỏe, bèn lập tức tiếp tục niệm.
Trong làng quê, Sư t́m một bà cụ học Phật, ở
gần đó, mỗi trưa đến nấu cơm
trưa và cơm chiều, nấu hai bữa cơm, c̣n bữa
điểm tâm do ông ta tự nấu, tự lo. Bà cụ giặt
giũ quần áo cho ông ta để ông ta chuyên tâm niệm Phật.
Niệm
suốt ba năm, đến một hôm, ông ta bảo bà cụ
hộ tŕ: “Ngày mai bà không cần nấu cơm, tôi vào thành gặp
bạn bè”. Trên thực tế, ông ta biết trước lúc
mất, sắp văng sanh, nên quay về từ biệt thân
thích, chào hỏi, thăm viếng. Hôm sau trở về, khi
trở về, bèn nói với bà cụ: “Ngày mai chẳng cần
nấu cơm cho tôi”. Bà cụ lại tưởng ông ta
đến thăm bạn bè, chẳng biết người
bạn nào sẽ mời ông ta ăn cơm. Đến bữa
sau, cụ ra chùa xem, coi sư phụ có nhà hay không? Kết quả
là thấy sư phụ ở trong Phật đường,
đứng trước tượng Phật, gọi th́ chẳng
ừ hử ǵ, đến trước mặt xem kỹ, thấy
ông ta đă mất, đứng mất! Liền vội vă
quay về báo tin, v́ c̣n có mấy đồ đệ quy y với
cụ Đế Nhàn ở vùng phụ cận, thảy đều
báo tin cho họ biết, gọi họ đến xem.
Trước nay chưa từng thấy người đứng
mất, rất hiếm hoi, lạ lùng! Những người
ấy sau khi t́m đến, bèn vội đến Quán Tông Tự[4]
thưa tŕnh. Từ nông thôn đến thành thị chẳng
có phương tiện giao thông, phải đi bộ, đi
một ngày mới đến nơi, thưa chuyện với
ḥa thượng Đế Nhàn. Ḥa thượng Đế
Nhàn chuẩn bị, sắp xếp, đến hôm sau mới
trở lại, đi về mất ba ngày. Ông ta đứng
sững suốt ba ngày, chờ lăo pháp sư Đế Nhàn
đến lo liệu hậu sự. Cụ Đế Nhàn thấy
t́nh h́nh ấy, rất tán thán: “Ông
rất lỗi lạc! Thật sự có thành tựu. Bất
cứ trụ tŕ hay phương trượng chùa miếu
nào nơi danh sơn bảo sát đều chẳng bằng
ông. Những pháp sư thông Tông, thông Giáo, giảng kinh
cũng chẳng sánh bằng ông!” Một câu A Di Đà Phật
mà thôi! Người ấy chưa từng nghe kinh ngày nào,
nhưng nghe lời, đúng là thật thà, thật sự
làm. Trừ một câu A Di Đà Phật ra, điều ǵ ông
ta cũng chẳng hiểu, [thế mà] biết trước
lúc mất, tự tại văng sanh, lại c̣n đứng sững
suốt ba ngày. Coi như lăo pháp sư Đàm Hư và người
thợ vá nồi là đồng học, đều cùng là học
tṛ của lăo ḥa thượng Đế Nhàn, Ngài thường
kể chuyện này để khích lệ người niệm
Phật. Quư vị thấy thời gian không dài, ba năm
đă đến thế giới Cực Lạc làm Phật,
có công phu như vậy chẳng đơn giản. Lời
cụ Đế Nhàn nói là thật, chẳng giả!
Do vậy,
vấn đề là chúng ta có chịu tin tưởng hay
không, chịu phát nguyện hay không, buông xuống vạn
duyên, phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm,
bèn thành công. Người thợ vá nồi ba năm thành công.
Mấy năm trước, tại Thâm Quyến, ông Hoàng
Trung Xương ba mươi tuổi mới lộ diện.
Ông ta nghe tôi giảng kinh thường dẫn ra những câu
chuyện bèn rất hoan hỷ, cũng rất muốn học
theo, dùng ba năm để làm thử xem [chính ḿnh] có thể
làm được hay không. Bà Hướng Tiểu Lỵ hộ
quan cho ông ta. Ông ta bế quan ba năm, c̣n thiếu hai tháng là
đầy ba năm, tức là hai năm mười tháng,
cũng biết trước lúc mất, A Di Đà Phật tiếp
dẫn ông ta về thế giới Cực Lạc. Hai năm
mười tháng! Làm cho chúng ta thấy, ông ta thử xem rốt
cuộc là thật hay giả, bèn thành công. Niệm Phật
văng sanh là chuyện ngàn vạn phần xác đáng, chẳng
giả tí nào, vấn đề là quư vị không chịu làm
th́ chẳng có cách nào cả! Sanh về thế giới Cực
Lạc là đi làm Phật, kinh đă nói hết sức hay: “Dẫu là hạ hạ phẩm
văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, hễ đến
thế giới Cực Lạc bèn là A Duy Việt Trí Bồ
Tát”. A Duy Việt Trí là ba món Bất Thoái. Vị Bất
Thoái th́ A La Hán làm được, Hạnh Bất Thoái, Bồ
Tát làm được; nhưng Niệm Bất Thoái th́ phải
là Pháp Thân Bồ Tát, minh tâm kiến tánh, đại triệt
đại ngộ, cũng là vượt thoát mười
pháp giới. Theo kinh Hoa Nghiêm, từ Viên Giáo Sơ Trụ trở
lên mới là Niệm Bất Thoái. Cổ đại đức
cũng có thuyết cho rằng: Từ Thất Địa trở
lên [mới là Niệm Bất Thoái]. Chúng ta chẳng tính từ
Thất Địa trở lên, chỉ tính từ Viên Giáo
Sơ Trụ trong Hoa Nghiêm trở lên th́ đă rất lỗi
lạc, [Niệm Bất Thoái] sanh vào cơi Thật Báo Trang
Nghiêm. Trong thế giới Cực Lạc, hạ hạ phẩm
văng sanh trong cơi Đồng Cư, do được bổn
nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, cho
nên người văng sanh ấy cũng hưởng thụ sự
đăi ngộ của A Duy Việt Trí Bồ Tát, tức là sự
đăi ngộ do ba món Bất Thoái. Có sự đăi ngộ ấy,
giống như trong phần trên đă nói, người ấy
có năng lực ứng hóa: Chúng sanh có duyên với người
ấy trong khắp pháp giới hư không giới hễ nhắn
tin cho người ấy, người ấy liền có thể
ứng hóa. Cung cấp tin tức cho người ấy là cảm,
người ấy bèn ứng, nên dùng thân ǵ để độ
được bèn hiện thân ấy, nên dùng pháp ǵ để
hóa độ người ấy bèn dùng pháp đó. Cũng có
thể nói là [người ấy đă] thông suốt toàn bộ
mười phương ba đời tất cả Phật
pháp và pháp thế gian v́ chẳng ĺa tự tánh. Chỉ cần
quư vị kiến tánh bèn thông suốt toàn bộ.
Do vậy,
tôi nói những người ấy là người thật sự
thông minh, tốn thời gian ba năm bèn thông suốt, đạt
được toàn bộ, há có nhiều nỗi phiền phức
[như trong các pháp môn khác]! Pháp môn hy hữu, khó gặp, mà
chúng ta có duyên gặp gỡ. Đă gặp gỡ mà chẳng
thể nắm vững, hăy c̣n hoài nghi, vẫn chưa thể
hoàn toàn tin tưởng pháp môn này, đó là nghiệp chướng
của chính ḿnh! Trước mắt đă có lắm chứng
cứ ngần ấy, những người như ông thợ
vá nồi hoặc Hoàng Trung Xương đă làm Tác Chứng
Chuyển trong ba thứ chuyển pháp luân, chứng minh cho
chúng ta, chứng minh pháp môn này, chứng minh thế giới
Cực Lạc, chứng minh niệm Phật văng sanh chẳng
giả tí nào. Do đó, trí huệ chiếu kiến. Chúng ta
cũng phải dùng trí huệ để soi thấu suốt
thế gian này, đối với bất cứ tai nạn
nào, cũng đều chẳng có mảy may sợ hăi ǵ, biết
tai nạn do nguyên nhân nào phát sanh, và cũng biết
phương pháp ǵ để có thể hóa giải. Hiềm
rằng chúng sanh chẳng tin tưởng, chẳng thể
tiếp nhận, đó là do cộng nghiệp cảm vời.
Tai nạn xảy tới giống hệt nhau, nhưng mỗi
người đi về một chỗ khác nhau, người
niệm Phật chúng ta có chỗ để người niệm
Phật sanh về. V́ thế, hiện thời phải đặt
chuyện này lên đầu, tức là xếp niệm Phật
văng sanh hàng đầu. Người thật sự có công phu
ấy, giống như ông Hoàng Trung Xương, nếu chẳng
đến thế giới Cực Lạc, ở thêm [trong thế
gian này] mấy năm nữa có được hay không?
Được chứ! Chẳng phải là không được,
đến đi tự do. Người thợ vá nồi trụ
thêm mấy năm cũng được. V́ sao phải ra
đi như vậy? Dùng phương pháp ấy để
độ chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh, đó là đại
từ đại bi, nêu gương tốt cho chúng sanh, khiến
cho mọi người kiên định tín tâm, nghiêm túc học
tập, tương lai ai nấy đều văng sanh. V́ thế,
chúng ta phải nới rộng tầm mắt, nh́n cho xa, thấy
cho sâu, quư vị sẽ liễu giải hành động của
những người ấy là công đức chân thật!
Tiếp
đó, [cụ Hoàng] nói ư của ngài Tăng Triệu là: Trí huệ
là bản thể, thánh minh là diệu dụng. Hết thảy
mọi sự đều có thể soi tỏ thông đạt
bèn gọi là Thánh. Người Hoa gọi là thánh nhân, ở Ấn
Độ gọi là Phật. Quyền Trí và Thật Trí của
Bồ Tát: Quyền Trí là phương tiện thiện xảo,
Thật Trí là Căn Bản Trí. Thật Trí là Định,
thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, Quyền Trí là
phương tiện thiện xảo, ứng dụng trong
cuộc sống hằng ngày, tự hành, hóa độ
người khác. Sanh ra tác dụng chiếu soi linh minh, chúng
sanh do phàm t́nh trọn chẳng thể hiểu được.
V́ sao? Chúng sanh có phân biệt, chấp trước, v́ thế,
họ chẳng thể hiểu, đó gọi là “bất khả tư”, tức
là chẳng thể suy tưởng. Hễ suy tưởng
bèn rớt vào ư thức, sai mất rồi! Hết thảy
ngôn ngữ chẳng thể biểu đạt, nên là “bất khả nghị”, “nghị” (議) là nghị luận,
là thảo luận, nói năng. “Phi
ngữ ngôn phân biệt chi sở năng tri, cố kỳ
h́nh kỳ dung vô pháp nghĩ nghị” (Do ngôn ngữ, phân biệt
chẳng thể biết được, nên không có cách nào mô
tả, bàn luận h́nh tướng của trí huệ
ấy), t́m không ra phương pháp thích đáng để
tỷ dụ. Do đó, đến cuối cùng, đức
Phật nói: “Duy chứng phương tri” (chỉ có chứng mới biết),
quư vị thật thà tu hành, đạt đến cảnh
giới này, sẽ tự nhiên hiểu rơ.
“Hựu bất khả tư nghị
hữu nhị chủng, nhất giả Lư Không” (“chẳng
thể nghĩ bàn” lại có hai loại, một là Lư Không).
Chữ Không này chẳng dễ hiểu! Không chẳng phải
là Vô (không có ǵ), mà Không là Có! V́ sao chẳng nói là Có, lại
nói là Không? V́ lục căn của quư vị chẳng duyên
được! Lư là ǵ? Lư là tự tánh, tự tánh là Lư Thể.
Tất cả hết thảy các pháp đều sanh từ
nó, nó có thể sanh, có thể hiện. Thức có thể biến,
thức là phân biệt, chấp trước. Phân biệt, chấp
trước có thể sanh ra biến hóa, y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới do thức biến. Nhất
Chân pháp giới, cơi Thật Báo của chư Phật do tâm
hiện, chẳng có thức biến, mà do tâm hiện. Tâm
sanh, tâm hiện, mười pháp giới là thức biến,
đó là Lư. Lư Thể là tự tánh, nên chẳng phải là “hoặc t́nh” (惑情: t́nh chấp do phiền năo tạo
thành). Hoặc (惑) là vô minh phiền năo, là khởi
tâm động niệm, T́nh (情) là phân biệt,
chấp trước. Quư vị có khởi tâm động niệm,
phân biệt, chấp trước, sẽ chẳng có cách nào,
chắc chắn chẳng đạt được [“bất
khả tư nghị”]. Chỉ cần quư vị đoạn
hết Hoặc T́nh, chân tướng liền ở ngay
trước mặt, bèn hoàn toàn hiểu rơ.
Loại thứ
hai là “thần kỳ”. “Thần kỳ” (神奇) là Bồ Tát ứng hóa, khởi tác dụng, “phi thiển thức sở lượng”,
[nghĩa là] người kiến thức kém cỏi, nông cạn
sẽ chẳng biết. “Hựu
Trí Độ Luận viết: Tiểu Thừa pháp trung vô bất
khả tư nghị sự, duy Đại Thừa pháp trung
hữu chi, như lục thập tiểu kiếp thuyết
Pháp Hoa Kinh vị như thực khoảnh” (Trí Độ
Luận lại nói: “Trong pháp Tiểu Thừa, chẳng có
chuyện chẳng thể nghĩ bàn, chỉ có pháp Đại
Thừa là có, như sáu mươi tiểu kiếp nói kinh
Pháp Hoa mà nói là như trong khoảng một bữa ăn”).
Đó là ǵ? Thời gian là giả, chẳng thật. Trong pháp
Tiểu Thừa đều là có thể nghĩ, có thể
bàn, có thể thảo luận, có thể nghiên cứu, pháp
Đại Thừa th́ không được. Trong pháp Đại
Thừa có chuyện chẳng thể nghĩ bàn. Do vậy,
luận lư, biện chứng pháp (dialectic), lư tắc học
(logic), áp dụng những phương pháp luận khoa học
đó vào kinh Tiểu Thừa th́ được, nhưng vô
dụng đối với kinh Đại Thừa, v́ kinh
Đại Thừa vượt ngoài lư luận.
Tôi nhớ thuở
trước, lúc mới xuất gia chưa được
bao lâu, pháp sư Đạo An dùng danh nghĩa của hội
Phật giáo Trung Hoa tổ chức một hoạt động
là Đại Chuyên Phật Học Giảng Ṭa, cũng làm
được vài năm. Lăo ḥa thượng muốn tôi
đảm nhiệm vai tṛ tổng chủ giảng trong giảng
ṭa, tôi nhớ đă đảm nhiệm chức vụ ấy
ba năm mấy. Khi đó, tôi mời tiên sinh Phương
Đông Mỹ giảng phương pháp luận cho chúng tôi.
Phương pháp luận trong khoa học là Lư Tắc Học,
trong Phật pháp gọi là Nhân Minh, dùng kinh bổn Phật
pháp để giảng [Lư Tắc Học] th́ gọi là Nhân
Minh, mời thầy mở khóa học ấy. Thầy bảo
tôi: “Tiểu Thừa th́ có thể dùng, sơ cấp th́ có thể
dùng, chứ tiến cao hơn, toàn bộ chẳng dùng
được”. Lần đầu tiên, tôi nghe thầy
Phương nói chân tướng sự thật ấy:
[Phương pháp luận khoa học] chẳng thể áp dụng
cho pháp Đại Thừa. Quư vị thấy sáu mươi
tiểu kiếp, thời gian ấy dài lắm! Hai
mươi tiểu kiếp là một trung kiếp, sáu
mươi tiểu kiếp là ba trung kiếp, đức Phật
giảng ǵ? Giảng kinh Pháp Hoa giống như trong một “thực khoảnh” (食頃), tức là thời gian một bữa cơm. Đó
là nói về thời gian. Có thể thu gọn sáu mươi
tiểu kiếp thành một “thực khoảnh”, tức là
thời gian một bữa cơm, thời gian một bữa
cơm có thể triển khai thành sáu mươi tiểu kiếp.
Đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm càng chẳng thể
nghĩ bàn, kinh nói là “nhị thất
nhật trung”, nhị thất (二七) là mười bốn
ngày. Ngài giảng bao nhiêu? Tam thiên đại thiên thế giới
vi trần kệ, một tứ thiên hạ vi trần[5] phẩm.
Trong long cung, Long Thọ Bồ Tát thấy địa cầu
chẳng thể chứa đựng toàn bộ nguyên văn
kinh Hoa Nghiêm! Trong mười bốn ngày, có thuyết nói là
hai mươi mốt ngày, sao lại có thể làm như vậy
được? Nếu quư vị niệm bộ kinh ấy
một lượt, nói theo trạng huống trong nhân gian
chúng ta hiện thời, quư vị niệm một trăm
năm cũng chẳng xong, niệm một bộ cũng chẳng
xong. V́ sao tôi biết? Tôi nh́n vào Tứ Khố Toàn Thư, quư
vị mỗi ngày đọc Tứ Khố Toàn Thư tám tiếng
đồng hồ, đọc suốt một trăm
năm vẫn chưa xong. Kinh Hoa Nghiêm to hơn bộ sách ấy
nhiều lắm. Đúng là vô lượng kiếp cô đọng
thành mười bốn ngày, thật sự chẳng thể
nghĩ bàn!
(Kinh) Như thị
đẳng chư đại Bồ Tát, vô lượng vô
biên, nhất thời lai tập.
(經) 如 是 等 諸 大 菩 薩,無
量 無 邊,一 時 來 集。
(Kinh: Các vị đại
Bồ Tát như thế vô lượng vô biên, cùng một lúc
nhóm họp).
Những vị Bồ
Tát cùng một đẳng cấp, tức là Pháp Thân Bồ
Tát, vô lượng vô biên! Nói rơ: Chẳng phải là một vạn
hai ngàn người cùng một lúc nhóm họp. “Tổng kết dĩ thượng
đức tuân Phổ Hiền chi chư đại Bồ
Tát, vị thính văn, tán dương Tịnh Tông diệu
pháp cố, vị quảng hoằng Phổ Hiền nguyện
vương cố, vị phổ độ thập
phương tam thế nhất thiết hữu t́nh, văng sanh
Tịnh Độ cứu cánh Niết Bàn cố, đồng
đức, đồng tâm, nhất thời lai hội. Tịnh
Ảnh Sớ viết: Vị pháp tâm đồng, cố lai
nhất thời” (Tổng
kết: Các vị đại Bồ Tát trên đây
đều là đức tuân Phổ Hiền, do nghe
giảng, khen ngợi diệu pháp Tịnh Tông, do hoằng
truyền rộng răi nguyện vương Phổ Hiền,
v́ phổ độ mười phương ba đời
hết thảy hữu t́nh văng sanh Tịnh Độ,
[đạt đến] Niết Bàn rốt ráo, đồng
đức, đồng tâm, nên cùng một lúc nhóm
đến. Tịnh Ảnh Sớ viết: “V́
pháp và tâm giống nhau, nên cùng lúc nhóm đến”).
Đoạn này là tổng kết. Đoạn tiếp theo
cho biết trong đại hội này c̣n có những
người như dưới đây.
(Kinh) Hựu hữu
tỳ-kheo-ni ngũ bách nhân.
(經) 又 有 比 丘 尼 五 百 人。
(Kinh: Lại có tỳ-kheo-ni
năm trăm vị).
Đây
là nữ chúng xuất gia.
(Kinh)
Thanh tín sĩ thất thiên nhân.
(經) 清 信 士 七 千 人。
(Kinh:
Thanh tín sĩ bảy ngàn người).
Đây
là cư sĩ, ưu bà tắc.
(Kinh)
Thanh tín nữ ngũ bách nhân.
(經) 清 信 女 五 百 人。
(Kinh: Thanh tín nữ
năm trăm người).
Đây
là nữ cư sĩ. C̣n có:
(Kinh)
Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên, chư thiên Phạm
chúng, tất cộng đại hội.
(經) 欲 界 天。色 界 天。諸
天 梵 眾。悉 共 大 會。
(Kinh:
Trời
Dục giới, trời Sắc giới, chư thiên
Phạm chúng đều cùng tới trong đại hội).
Đoạn
giải thích sau phần này của lăo cư sĩ chúng ta
đọc qua là được rồi. “Thanh tín sĩ tức Ưu Bà Tắc, thanh tín nữ tức
Ưu Bà Di. Dĩ thượng kinh văn, độc kiến
Hán dịch. Ngụy dịch tắc cẩn hữu Bồ
Tát dữ tỳ-kheo chúng. Tống dịch kinh mạt viết:
‘Tịnh thiên long bát bộ nhất thiết đại
chúng, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ’,
quân quảng ư Ngụy dịch” (“Thanh tín sĩ” là Ưu-bà-tắc (Upāsaka). “Thanh tín nữ” là
Ưu-bà-di (Upāsikā). Đoạn
kinh trên chỉ thấy trong bản Hán dịch, bản
Ngụy dịch chỉ chép chúng Bồ Tát và tỳ-kheo.
Cuối bản Tống dịch chép: “Cùng
trời, rồng, tám bộ, hết thảy đại
chúng, nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ
lớn”, như vậy đều là phần nói rộng
của bản Ngụy dịch vậy). Trên đây là Tự
Chứng Phần, chúng ta học tới chỗ này. Hôm nay
vừa khéo đă hết thời gian, ngày mai chúng ta sẽ
xem phần Đại Giáo Duyên Khởi Đệ Tam,
tức là Biệt Tự, Biệt Tự của bản kinh
này.
Tập
138
Chư vị pháp sư, chư vị
đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa
Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm
năm mươi bảy, “Thứ
Biệt Tự” (kế đến là Biệt Tự), xem
từ chỗ này.
“Hạ nhất phẩm vi Biệt
Tự, diệc vi Phát Khởi Tự. Tự trung Như Lai
hiện thụy, phóng quang, A Nan hỷ duyệt thỉnh vấn,
Thế Tôn chánh đáp sở nghi, diễn xuất nhất bộ
quảng đại, viên măn, giản dị, trực tiệp,
phương tiện, cứu cánh, đệ nhất hy hữu,
nan phùng pháp bảo Phật Thuyết Đại Thừa Vô
Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng
Giác Kinh. Đại Giáo Duyên Khởi đệ tam” (Phẩm tiếp theo đây là
Biệt Tự, cũng là Phát Khởi Tự. Trong phần
này, Như Lai hiện tướng lành, phóng quang, A Nan hoan
hỷ thưa hỏi, Thế Tôn đáp thẳng vào
điều nghi, diễn xuất một bộ pháp bảo
quảng đại, viên măn, đơn giản, dễ dàng,
nhanh tắt, phương tiện rốt ráo, hy hữu
bậc nhất, khó được gặp gỡ là kinh
Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác. Đại Giáo Duyên Khởi, phẩm
thứ ba).
Mấy câu mào đầu này của
cụ Niệm Tổ nhằm nêu bày nhân duyên thù thắng
của bộ kinh này, quả thật là hy hữu khó gặp
khôn sánh. Học Phật phải thâm nhập Kinh Tạng. Kinh Tạng
ở đây chẳng phải là nói đến Đại Tạng
Kinh. Ư nghĩa thật sự của “thâm nhập Kinh Tạng” là minh tâm kiến tánh,
đại triệt đại ngộ. Chúng ta biết đức
Thế Tôn thuở tại thế, giảng kinh, giáo học
không ǵ chẳng phải là ứng cơ thuyết pháp (thuyết
pháp thuận theo căn cơ). Nói cách khác, một người
chẳng thể học rất nhiều kinh điển và
pháp môn. Quư vị có nghi hoặc, hướng về đức
Thế Tôn thỉnh giáo, Ngài chỉ dạy quư vị một
phương pháp, quư vị có thể tu tốt đẹp
phương pháp ấy, sẽ đạt được
toàn bộ hết thảy các pháp, đó mới gọi là “thâm nhập Kinh Tạng”. Bất
luận là bộ kinh điển nào, pháp môn b́nh đẳng,
chẳng có cao thấp. V́ thế, một bộ kinh thông, hết
thảy các kinh đều thông. Nếu quư vị nói “hết
thảy các kinh đều thông, hăy c̣n có một hai bộ
chưa thông”, đó là giả!
Trong Ấn Quang
Đại Sư Văn Sao, có rất nhiều ví dụ
như vậy. Năm xưa, tôi mới học Phật, thầy
chỉ định công khóa ấy cho tôi tự học tập.
[Theo Văn Sao], từng có một người tu Thiền,
đổ công sức tu tập chẳng ít năm, trong bộ
Ngũ Đăng Hội Nguyên của Thiền Tông có một
ngàn bảy trăm công án, nói theo cách hiện thời, đó
là những gương khai ngộ, [bộ sách ấy chép]
gương khai ngộ của hơn một ngàn bảy
trăm người, phương pháp mỗi người mỗi
khác. Người ấy rất thích Thiền, tốn vài chục
năm [nghiên cứu], viết thư gởi Ấn Quang
đại sư, nói gần như một ngàn bảy
trăm công án ông ta đều tham thấu triệt, đều
hiểu rơ, chỉ có vài công án hăy c̣n vướng mắc. Ấn
Quang đại sư viết thư trả lời: Đặc
biệt là những thứ trong Tông Môn, hễ một ngộ
th́ hết thảy ngộ. Nếu trong một ngàn bảy
trăm công án mà ông tham thấu triệt, hiểu rơ một
công án, sẽ hiểu được toàn bộ. Ông nói ông gần
như đều hiểu trọn, nhưng c̣n một hai
công án chẳng tham thấu triệt, tức là ông hoàn toàn chẳng
hiểu công án nào cả! Người ấy sau đó chẳng
c̣n học Thiền, buông Thiền xuống, theo Ấn Quang
đại sư niệm A Di Đà Phật. Giả trất,
khi thật sự kiến tánh, há c̣n có thứ ǵ chẳng hiểu?
Chẳng có lẽ ấy! Nay chúng ta hiểu lư này, v́ sao? Hết
thảy các pháp chẳng ĺa tự tánh. Chỉ cần quư vị
kiến tánh, bất luận quư vị đă học rồi
hay chưa, dẫu là Phật giáo, hay là các tôn giáo khác, thậm
chí tất cả học thuật thế gian như khoa học
kỹ thuật hiện thời, chẳng có một điều
nào quư vị không biết. Nếu có điều ǵ quư vị
chẳng biết, tức là quư vị chưa kiến tánh, kiến
tánh chẳng phải là giống như vậy. Chư vị
chớ nên không biết chuyện này.
V́ sao? Người
thế gian mê mất tự tánh rất sâu, nhưng trọn
chẳng biết. Họ cũng chẳng phải là cố ư
lừa gạt người khác. Trong Phật pháp có một
danh từ là Tăng Thượng Mạn. Sự ngạo mạn
ấy chẳng phải là thật sự mong gạt người!
Kẻ ấy chưa chứng đắc, nhưng cứ
tưởng chính ḿnh đă chứng đắc. Chẳng ngộ nhập kinh giáo, cứ tưởng
chính ḿnh đă ngộ nhập. Năm xưa, tôi c̣n gặp một
người, người ấy là vợ của một
người bạn thân thiết của tôi. Người bạn
ấy c̣n kể như là cấp trên của chúng tôi,
nhưng không trực tiếp cai quản chúng tôi, ông ta là một
vị tướng quân trong cơ quan của tôi. Vợ ông
ta cũng học Phật. Tôi vừa học Phật, bà ta rất
hoan hỷ. Có một hôm mời tôi đến nhà bà ta, kiên
quyết nói bà đă chứng đắc quả A La Hán. Tôi
nói cách nào bà ta cũng lắc đầu: “Tôi đă thật
sự chứng đắc, chẳng giả”. Đến cuối
cùng, tôi hết cách, liền bảo bà ta: Đối với
sáu thứ năng lực, Sơ Quả Tu Đà Hoàn khôi phục
hai thứ, c̣n A La Hán th́ cả sáu thứ đều khôi phục,
[các năng lực ấy] được gọi là Lục
Thần Thông, hay Lục Thông. Tôi nói: Sơ Quả Tu Đà
Hoàn có năng lực là Thiên Nhăn Thông và Thiên Nhĩ Thông. Thiên
Nhăn Thông là ǵ? Bà ta sẽ có thể thấy [những vật]
ở ngoài vách tường. Nhà bà ta ở cạnh một con
sông nhỏ, hai bên là một con đường. Tôi nói: Chúng
ta ngồi ở chỗ này, vừa khéo chỗ bà ta ngồi
đối diện cửa lớn, chẳng có cửa sổ.
Tôi nói: “Người bên ngoài làm này nọ, bà có thể thấy
hay không?” Bà ta đáp: “Chẳng thấy”. Tôi nói: “Vậy là giả,
chẳng thật! Cách một bức tường mà bà đă
chẳng có năng lực nh́n xuyên qua, lấy đâu ra Thiên
Nhăn Thông?” Tôi nói A La Hán có Thiên Nhăn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha
Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Thần Túc Thông, Lậu Tận
Thông, đó là A La Hán thật sự. Nói như vậy, bà ta mới
phục. V́ thế, chẳng phải là bà ta lừa gạt
chúng tôi mà là hiểu lầm.
Người
như vậy xưa nay rất nhiều, không chỉ là kẻ
tại gia, người xuất gia cũng chẳng phải
là ngoại lệ. Trong câu chuyện Dă Hồ Thiền thời
thiền sư Bách Trượng, [nhân vật chính] là người
xuất gia, chẳng phải kẻ tại gia, cũng là một
vị pháp sư. Có người hướng về vị ấy
thưa hỏi, vị ấy tùy tiện đáp, v́ cũng
tưởng chính ḿnh đă thông suốt. Người ta hỏi
câu ǵ? Người đại tu hành có c̣n rơi vào nhân quả
hay không? Sư trả lời “không rơi vào nhân quả”. Vị
pháp sư ấy, tức vị pháp sư trả lời câu
hỏi ấy, sau khi chết liền đọa làm thân chồn,
nên gọi là “dă hồ thân”
(thân chồn hoang), [mang thân chồn] suốt năm trăm đời,
do nói sai một chữ. V́ sao? Hướng dẫn người
khác sai lầm! Vấn đề này nghiêm trọng lắm!
Con chồn ấy xem như trong đời quá khứ có tu
hành, là pháp sư trong Phật môn, trong năm trăm đời
cũng tu luyện thành thân người, chẳng dễ
dàng. Thị hiện thành một cụ già, râu tóc đều
trắng toát, cụ già mà! Bách Trượng đại
sư hằng ngày giảng kinh, cụ già đều đến
nghe, là một thính chúng rất kiền thành. Người
khác đều không biết, chỉ có Bách Trượng
đại sư biết cụ già chẳng phải là
người, mà là hồ ly tinh, nhưng ông cụ chẳng
có ác ư, chẳng hại người. Có một hôm, ông cụ
hướng về Bách Trượng đại sư nói
chính ḿnh có câu hỏi: “Làm thế nào để thoát thân súc
sanh?” Bách Trượng đại sư nói: “Được
rồi, ngày mai ông đến đây. Trong quá khứ, người
ta hỏi ông như thế nào, ông cứ hỏi tôi [như vậy]”.
Đến hôm sau, Bách Trượng đại sư
thăng ṭa, ông cụ liền quỳ xuống thỉnh giáo,
thưa hỏi: “Bậc đại tu hành có c̣n rớt trong
nhân quả hay không?” Bách Trượng thiền sư sửa
một chữ, thành “bất muội
nhân quả” (chẳng lầm nhân quả). Quư vị thấy
trước kia cụ già nói “chẳng rơi vào nhân quả”,
nay [ngài Bách Trượng nói] “chẳng lầm nhân quả”, cụ
liền giác ngộ, ngày hôm sau liền thoát khỏi thân chồn.
Lăo ḥa thượng biết: “Đi thôi! Chúng ta đến
sau núi, cầm theo ky và cuốc”. Đại sư nói: “Chúng
ta đến lo liệu hậu sự cho ông ta, ngày hôm qua cụ
già ấy đă văng sanh”. Đến sau núi, quả nhiên thấy
một con chồn, bèn dựa theo lễ tiết dành cho
người xuất gia để mai táng, chôn cất. Đại
sư liền nói người xuất gia này đời quá
khứ là một vị đại pháp sư [bị đọa
thân chồn v́] đă nói sai một chữ.
Nói năng chẳng
thể không gánh trách nhiệm, nếu viết thành sách lại
càng chẳng được. Viết thành sách th́ đến
khi nào quư vị mới có thể thoát tội? Khi nào quyển
sách do quư vị viết bị tiêu diệt trong thế gian
này, chẳng c̣n một quyển nào, quư vị mới có thể
thoát khỏi. Nếu thế gian này, hăy c̣n một quyển
sách chưa mất, quư vị sẽ chẳng có cách nào thoát
ĺa tội ấy, quư vị nói xem có đáng sợ lắm
hay không? Những vị đại đức giảng kinh,
thuyết pháp thời cổ chịu trách nhiệm, viết
thành sách càng đáng ngại hơn. Các Ngài như thế nào?
Các Ngài sợ nhân quả. Người hiện thời chẳng
tin nhân quả. Nhân quả chẳng phải là nói “hễ tin
bèn có, chẳng tin th́ không”, chẳng phải vậy! Không tin
th́ nó vẫn có y hệt, phiền phức ở chỗ này!
Chúng ta chưa khai ngộ, có dám giảng kinh hay không? Lăo
cư sĩ Hoàng Niệm Tổ chưa khai ngộ có dám chú
giải kinh hay không? Chúng ta đọc bản chú giải của
cụ, chẳng phải là lời chú giải của chính cụ.
Cụ đọc một trăm chín mươi ba loại
kinh luận, tham khảo tài liệu, toàn là trích lục những
lời chú giải, nên cụ có căn cứ. Chẳng phải
là tôi sai. Quư vị nói tôi sai th́ là trong kinh luận của họ
đă phạm sai lầm, chứ tôi chẳng phạm lỗi.
Đó là ǵ? Nhằm thị hiện cho người trong thời
đại này. Chúng tôi học giảng kinh, khi ấy, đă
biết một chút đạo lư này, chẳng dám! Thầy
khuyên dạy chúng tôi: “Nếu chờ đến khai ngộ
rồi mới giảng kinh, chẳng biết đợi tới
năm nào. Nếu suốt đời này, anh chẳng khai ngộ,
tức là suốt đời này chẳng thể giảng
kinh! Vậy là chẳng có ai giảng kinh, Phật pháp sẽ
bị diệt trên thế giới này”. Giải quyết vấn
đề này như thế nào? Do đó, thầy dạy
chúng tôi. Chính bản thân thầy cũng khiêm hư. Thầy
nói: “Không chỉ quư vị chẳng dám, mà chính tôi cũng chẳng
dám. Nay chúng ta giảng kinh là giảng ǵ? Giảng chú giải!”
Câu nói ấy đă cảnh tỉnh chúng tôi, chúng ta chọn lọc
chú giải của cổ nhân, diễn dịch chú giải
thành lời văn Bạch Thoại để nói, chắc
chắn chẳng thể nói sai ư nghĩa. Chúng ta giảng
theo cách như vậy, nếu nẩy sanh vấn đề,
họ (những vị chú giải) chịu trách nhiệm,
chúng ta chẳng lănh trách nhiệm. Do hiểu chỗ này, chúng
tôi mới dám làm. V́ thế, lúc
mới học giảng kinh, tôi t́m [chú giải] của những
vị lăo pháp sư trong hiện thời, tôi nói đến
những bản chú giải bằng văn Bạch Thoại.
Về sau, dần dần tương đối thâm nhập,
mới t́m chú giải của cổ đại đức.
Thầy c̣n dặn ḍ, ắt phải lấy chú giải của
cổ đại đức làm chủ. V́ sao? Các Ngài đă
thật sự khai ngộ. Thời cổ, chưa khai ngộ,
chẳng ai dám viết lách. Hơn nữa, sách cổ gần
như đều đă trải qua tra xét nghiêm ngặt,
người tra xét là ai? Những vị cao tăng đại
đức thuở ấy. Các Ngài tra duyệt, nhận định
là chẳng có vấn đề rồi mới tấu tŕnh
Hoàng Thượng. Hoàng Thượng phê chuẩn cho nhập
tạng (đưa vào Đại Tạng Kinh). V́ thế,
Đại Tạng Kinh đáng tin cậy nhất, v́ đă
được kiểm tra nghiêm ngặt. Quư vị nói chú giải,
vậy th́ bản chú giải ấy có trong Đại Tạng
Kinh hay không? Hễ trong Đại Tạng Kinh mà có th́ [bản
chú giải ấy] rất đáng tin cậy. Hiện thời
chẳng có hoàng đế, đă đổi thành Dân Quốc.
[Chánh quyền] Dân Quốc gạt chuyện này sang một
bên, mặc cho nó tự sanh tự diệt. V́ thế, xă hội
Dân Quốc động loạn to lớn so với thời
đại đế vương trước kia, thật sự
là có mối quan hệ nhân quả. V́ sao? Đế
vương hộ pháp, đế vương học Phật,
đế vương cung kính Tam Bảo, nên quốc thái dân
an, Phật là phước điền lớn nhất của
hết thảy chúng sanh. Do đó, người đại
phú đại quư trong thế gian, quá nửa là đă gieo
phước nơi Phật môn trong đời quá khứ,
nay họ hưởng phước. Hưởng phước
mà không biết gieo phước lần nữa, nên hưởng
hết phước th́ làm như thế nào? Chẳng phải
là lại xuất hiện vấn đề ư? Cổ
nhân tin tưởng, kính trọng tổ tông, tín ngưỡng
bậc thánh hiền. Hiện thời, tổ tông cũng chẳng
kính, cũng chẳng ngó ngàng tới hiền nhân, tuyên bố
Phật, Bồ Tát là mê tín. Xă hội hiện tại trở
thành nông nỗi này, địa cầu lắm tai nạn ngần
ấy, rốt cuộc là do nguyên nhân ǵ, người thâm nhập
kinh tạng bèn hiểu rơ.
Do vậy,
thâm nhập kinh tạng th́ phải hiểu: Thâm nhập một
bộ kinh, chẳng phải là thâm nhập mỗi bộ
kinh, chẳng có ư nghĩa ấy. Chẳng phải là bảo
quư vị đọc rất nhiều kinh luận, học rộng,
nghe nhiều, chẳng phải vậy. Học rộng nghe
nhiều vào lúc nào? Thật sự giáo hóa chúng sanh, đó là
khi nào? Sau khi chính ḿnh đă minh tâm kiến tánh mới lại
học rộng, nghe nhiều, nhất định phải
hiểu rơ thứ tự. Tứ Hoằng Thệ Nguyện
đă nói rơ thứ tự tu học ấy. Học Phật
đầu tiên là phải phát Bồ Đề tâm, Bồ
Đề tâm là ǵ? Tâm độ chúng sanh, chúng sanh vô biên thệ
nguyện độ. Quư vị thấy trong lục đạo
đông đảo chúng sanh đang khổ sở! Làm thế
nào để giúp họ ĺa khổ được vui? Quư vị
phải phát đại tâm ấy! Muốn giúp đỡ
người khác, nhất định là phải thành tựu
chính ḿnh trước! Chính ḿnh chưa thành tựu, làm sao giúp
đỡ người khác cho được? Do đó, nguyện
thứ nhất là “chúng sanh vô
biên thệ nguyện độ”. Nói theo sự tu học
của chính ḿnh th́ đó là một động lực thúc
đẩy quư vị phải thật sự làm. Muốn giúp
đỡ chúng sanh, nhất định là quư vị phải
thành tựu đức hạnh và học vấn của
chính ḿnh. Đức hạnh thứ nhất là “phiền năo vô tận thệ nguyện
đoạn”, thành tựu đức hạnh. Thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài, mục đích là ǵ? Nhằm mục
đích đoạn phiền năo. Quư vị thấy nhé: Đă
đoạn Kiến Tư phiền năo, quư vị bèn thành
Chánh Giác, chứng quả A La Hán. Đoạn Trần Sa phiền
năo, quư vị là Bồ Tát, chứng đắc Chánh Đẳng
Chánh Giác. Phá vô thỉ vô minh, quư vị thành Phật, chứng
đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Những
chuyện này đều phải cậy vào thâm nhập một
môn, phải cậy vào đại định rất sâu. Từ
tu Định trở về tự tánh vốn định.
Sau khi triệt ngộ, tự tánh vốn định hiện
tiền, được gọi “Tánh
Tu bất nhị” (Tánh và Tu chẳng hai). Chưa kiến
tánh bèn tu Định, đó là “tu
công” (công phu tu hành). Sau khi đă kiến tánh, bèn là tánh
định. Tu Định nhằm mục đích khai phát
tánh định. Đă đạt công phu ấy rồi mới
học rộng nghe nhiều: “Pháp
môn vô lượng thệ nguyện học”. Hiểu rơ thứ
tự này, nếu hai điều trước vẫn
chưa có, mà toan pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
học suốt một đời, học cũng khá lắm,
rất dụng công, sẽ học được ǵ? Phật
học, tức là kiến thức thông thường về
Phật học, người hiện thời gọi là “tri
thức”, chẳng phải là trí huệ, sai biệt quá ư
to lớn! Người hiện thời có ai hiểu trí huệ?
Toàn là một mực noi theo hướng tri thức, đi
theo con đường ấy. Trí huệ và tri thức hoàn
toàn khác nhau! Trí huệ có thể giải quyết vấn
đề, tri thức chẳng được! Trí huệ
có thể quán thông hết thảy, có thể hoàn toàn quán thông
hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. V́ vậy,
[đi theo con đường tri thức] chính là đă nhận
lầm toàn bộ phương hướng và mục tiêu, hy
vọng các đồng học chúng ta đều có thể
hiểu điều này.
Phật
luôn mong mỏi chúng ta đi theo con đường tắt,
hy vọng chúng ta có thể thành tựu rất nhanh chóng. Do vậy,
học Phật th́ đầu tiên là chúng ta phải tự
ḿnh nghiêm túc kiểm điểm, phản tỉnh xem chính
ḿnh là căn tánh ǵ, chúng ta chọn lựa pháp môn nào, điều
này rất trọng yếu. Chọn đúng pháp môn, đời
này quyết định thành tựu. Chọn sai pháp môn,
đời này rất khó thành tựu, chẳng có kẻ nào
thành tựu do may mắn cả! Trong thiện căn, nói tới
những điều quan trọng nhất, sẽ là ngộ
tánh, công phu định lực, thành kính. Ấn Quang đại
sư đă nói rất hay: “Một
phần thành kính được một phần lợi ích,
mười phần thành kính được mười phần
lợi ích”. Chúng ta đối với chính ḿnh có thành kính
hay chăng? Đối với khóa tŕnh tu học của
chúng ta, đối với các kinh luận, có ḷng tin chân thành
hay không? Đối với thầy, thầy là Thích Ca Mâu Ni
Phật, có ḷng tin chân thành hay không? Đối với các vị
tổ sư truyền thừa nhiều thế hệ đều
phải có tín tâm chân thành th́ mới có thể thành tựu. V́
lẽ đó, người học đông đảo ngần
ấy, kẻ thành tựu ít dường ấy, quư vị
phải hiểu đạo lư này, biết đó là chuyện
tự nhiên, họ chẳng trọn đủ những
điều kiện ấy. Thích Ca Mâu Ni Phật là một vị
thầy gương mẫu, tôn giả A Nan là một người
học tṛ ngoan.
Trong
những phần trước, chúng ta đă học xong phần
Chứng Tín Tự, hôm nay là Phát Khởi Tự, tức “đại giáo duyên khởi đệ
tam”. Trước hết, chúng ta đọc kinh văn một
lượt, trong kinh văn có rất nhiều đoạn
ngắn, Chúng ta xem từng đoạn một.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn, oai quang hách dịch, như dung kim tụ, hựu như minh
kính, ảnh sướng biểu lư, hiện đại quang
minh, sổ thiên bách biến.
(經) 爾 時 世 尊。威 光 赫 奕。如 融 金 聚。又 如 明 鏡。影 暢 表 裡。現 大 光 明。數 千 百 變。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn oai quang rạng rỡ như khối vàng nung, lại
cũng như gương sáng trong ngoài sáng tỏ, hiện
quang minh lớn, biến hiện ra mấy trăm ngàn
thứ).
Đoạn
này “quang thụy phát khởi”
(dùng quang minh và tướng lành để phát khởi).
Đức Phật phóng quang, hiện thụy tướng,
dùng phương pháp này khiến cho đại chúng có cảm
xúc hy hữu. Lại xem phần kế tiếp:
(Kinh)
Tôn giả A Nan tức tự tư duy: “Kim nhật, Thế
Tôn sắc thân chư căn, duyệt dự thanh tịnh,
quang nhan nguy nguy, bảo sát trang nghiêm. Tùng tích dĩ lai, sở
vị tằng kiến”, hỷ đắc chiêm ngưỡng,
sanh hy hữu tâm.
(經) 尊 者 阿 難。即
自 思 惟。今 日 世 尊 色 身
諸 根。悅 豫 清 淨。光 顏
巍 巍。寶 剎 莊 嚴。從 昔
以 來。所 未 曾 見。喜 得
瞻 仰。生 希 有 心。
(Kinh:
Tôn giả A Nan liền tự suy nghĩ:
“Hôm nay, đức Thế Tôn sắc thân, các căn vui
sướng thanh tịnh, quang nhan ṿi vọi, cơi báu trang
nghiêm, từ xưa đến nay, ta chưa từng
thấy”, mừng rằng ḿnh được chiêm
ngưỡng, sanh tâm hy hữu).
Ngài
A Nan đại biểu cho đại chúng. Ngài trông thấy
thụy tướng của Phật, trong tâm cảm động.
Thụy tướng ấy quá hy hữu. Ngài A Nan là thị
giả của đức Phật, chưa từng thấy
tướng mạo trang nghiêm của đức Phật
như ngày hôm nay, trong tâm hoan hỷ. “Duyệt dự thanh tịnh” là tâm hoan hỷ hy hữu
khôn sánh do trông thấy [thụy tướng ấy]. Kế
đó là…
(Kinh)
Tức tùng ṭa khởi, thiên đản hữu kiên, trường
quỵ hiệp chưởng.
(經) 即 從 座
起。偏 袒 右 肩。長 跪 合
掌。
(Kinh:
Liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật
vai áo bên phải, quỳ thẳng, chắp tay).
Đây
là hành lễ. Trước hết, hướng về thầy
hành lễ rồi mới thỉnh pháp.
(Kinh)
Nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn, kim nhật nhập
đại tịch định, trụ kỳ đặc
pháp, trụ chư Phật sở trụ đạo sư
chi hạnh, tối thắng chi đạo”.
(經) 而 白 佛 言。世
尊 今 日 入 大 寂 定。住 奇
特 法。住 諸 佛 所 住 導 師
之 行。最 勝 之 道。
(Kinh: Mà bạch
Phật rằng: “Đức Thế Tôn ngày nay nhập
đại tịch định, trụ pháp kỳ
đặc, trụ hạnh đạo sư của chư
Phật trụ, là đạo tối thắng”).
Đây
chính là điều ngài A Nan thấy và cảm nhận, nên
thưa tŕnh, mà cũng là đại diện cho đại
chúng trong pháp hội [thưa tŕnh]. “Tối thắng chi đạo”, đạo tối
thắng là ǵ? Dưới đây sẽ cho biết.
(Kinh)
Khứ lai hiện tại Phật Phật tương niệm.
Vị niệm quá khứ, vị lai chư Phật da? Vị
niệm hiện tại tha phương chư Phật da? Hà
cố oai thần hiển diệu, quang thụy thù diệu
năi nhĩ. Nguyện vị tuyên thuyết.
(經) 去 來 現 在 佛 佛
相 念。為 念 過 去 未 來 諸
佛 耶。為 念 現 在 他 方 諸
佛 耶。何 故 威 神 顯 耀。光
瑞 殊 妙 乃 爾。願 為 宣 說。
(Kinh:
Quá khứ, vị lai, hiện tại
chư Phật nghĩ đến nhau. Ngài nghĩ
đến quá khứ vị lai chư Phật hay chăng?
Ngài nghĩ đến chư Phật hiện tại ở
phương khác hay chăng? V́ sao Ngài lại oai thần sáng
đẹp, tướng lành trong quang minh tuyệt vời
đến mức như thế? Xin tuyên nói cho).
Theo
Phật đă nhiều năm, hằng ngày nghe Phật giảng
kinh, thuyết pháp, huân tập cũng khá đáng kể, nên
biết pháp thù thắng khôn sánh trong hết thảy các pháp
là Niệm Phật, có phải là hôm nay đức Thế Tôn
đang niệm Phật? Niệm Phật th́ là niệm quá khứ
Phật, hay niệm vị lai Phật, hay là niệm chư
Phật trong hiện tại ở các thế giới
phương khác? V́ sao hôm nay thị hiện “oai thần hiển diệu, quang thụy thù diệu
năi nhĩ” (oai thần sáng đẹp, tướng lành trong quang
minh tuyệt vời đến mức như thế),
trước nay chưa hề thấy dáng vẻ như
thế này? Thật ra, đức Thế Tôn đang niệm A Di
Đà Phật, muốn tuyên thuyết và giới thiệu
pháp môn nhiếp thọ chúng sanh của A Di Đà Phật với
mọi người. Một đoạn này bao hàm những ư
nghĩa ǵ? Pháp môn này là pháp môn thù thắng khôn sánh, [nên để
giảng nói pháp môn ấy, đức Phật] hiện thụy
tướng hy hữu, ngay cả ngài A Nan cũng cảm thấy
hết sức đặc biệt, lạ lùng. “Trụ kỳ đặc pháp”
(trụ trong pháp đặc biệt, lạ lùng), hết sức
hiếm lạ, hết sức đặc thù, đều nhằm
biểu thị pháp môn này. Nay chúng ta hiểu rất rơ, rất
minh bạch, thời Mạt Pháp kể từ đây về
sau hăy c̣n hơn tám ngàn năm, chỉ có bộ kinh này là có thể
giúp đỡ chúng sanh thành tựu trong thời Mạt Pháp.
Mọi người có thể tự ḿnh thí nghiệm các pháp
môn khác, cách thí nghiệm như thế nào? Quư vị chiếu
theo pháp môn ấy để tu, coi thử phiền năo tập
khí có thể đoạn được hay không? Chẳng cần
phiền năo tập khí quá sâu, rơ rệt, nông cạn nhất
là năm thứ Kiến Hoặc, tức Thân Kiến, Biên Kiến,
Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến,
quư vị hăy thử [đoạn trừ] những phiền
năo ấy. V́ sao? Nếu đă đoạn hết những
thứ ấy, quư vị liền chứng quả Tu Đà
Hoàn. Trong Tiểu Thừa, đó là Sơ Quả, trong Đại
Thừa, xét theo Thập Tín Vị Bồ Tát trong kinh Hoa
Nghiêm, sẽ là Sơ Tín. Quư vị hăy thử xem, dùng thời
gian trọn hết một đời, xem quư vị có thể
làm được hay không. Thưa cùng quư vị, Sơ Quả
th́ hai thứ thần thông sẽ hiện tiền, [tức
là] Thiên Nhăn hiện tiền, Thiên Nhĩ hiện tiền, quư
vị hăy thử xem. Nếu không được, hăy vội
vă quay đầu th́ hăy c̣n kịp. Nếu cứ một mực
mê chấp, sẽ lầm lỡ một đời này, trong
tương lai chẳng biết lại gặp pháp môn này
trong đời nào, kiếp nào! Thật đấy, chẳng
giả đâu! Do đó, quư vị thấy [kinh này chép] phóng
quang minh, hiện tướng lành, hăy so sánh với các kinh
khác, [sẽ thấy] trong các kinh khác chẳng có cách nói này! Từng
câu từng chữ trong kinh giáo đều bao hàm vô lượng
nghĩa, chớ nên khinh dễ đọc lướt qua!
Chúng
ta hăy xem chú giải của lăo cư sĩ: “Thích Tôn tương dục diễn thuyết vô
thượng thù thắng Tịnh Độ pháp môn, cố
hiện thụy, phóng quang” (đức Thích Ca sắp diễn
nói pháp môn Tịnh Độ vô thượng thù thắng, nên
hiện tướng lành, tỏa quang minh), thị hiện
tướng lành, phóng quang để dẫn khởi. Nay
chúng ta nói “hưng khởi” (興起) là dẫn khởi (引起), nhằm dẫn
dụ ngài A Nan nêu câu hỏi. “Tịnh
linh văn giả sanh hy hữu tưởng” (và khiến
cho người nghe sanh ư tưởng hy hữu), người
tham dự hội này cũng rất đặc thù, đặc
biệt đông đảo. “Sanh
nan tao tưởng” (sanh ư tưởng khó gặp gỡ),
pháp môn này rất khó gặp gỡ. “Y giáo phụng hành, cầu sanh Tịnh Độ”,
thành tựu trong một đời này. Sự thành tựu
này là bảo đảm, là chân thật. Trên thực tế,
chúng ta chưa đoạn một phẩm phiền năo nào,
công phu niệm Phật chỉ là chế phục phiền
năo. Đối với bất cứ pháp môn nào [ngoài Tịnh
Độ], chế phục phiền năo là chưa được,
chẳng thể thành tựu, phải đoạn phiền
năo! Đối với pháp môn này, hễ chế phục phiền
năo, bèn có thể văng sanh. Nếu đă đoạn phiền
năo văng sanh, tối thiểu là [sanh trong] cơi Phương Tiện
Hữu Dư, có công phu Tiểu Thừa. Trong giáo pháp Đại
Thừa, nói theo kinh Hoa Nghiêm, quư vị có công phu của địa
vị Thập Tín, từ Sơ Tín đến Thập Tín
đều sanh trong cơi Phương Tiện Hữu Dư.
Trong cơi Phương Tiện Hữu Dư có ba bậc, chín
phẩm. Người chẳng đoạn Kiến Tư phiền
năo, thông thường đều sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng
Cư. Địa cầu này là cơi Phàm Thánh Đồng
Cư, [đây là cơi Đồng Cư của] Thích Ca Mâu Ni Phật,
có lục đạo luân hồi. Cơi Đồng Cư trong
Tây Phương Cực Lạc thế giới chỉ có hai
đường, chẳng có lục đạo, ba bậc
chín phẩm trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư là nhân thiên
đạo. Thế giới Cực Lạc chẳng có súc
sanh, chẳng có ngạ quỷ, chẳng có địa ngục.
Lại
c̣n hết sức kỳ đặc, đúng là “trụ kỳ đặc pháp”,
kỳ đặc là ǵ? Người văng sanh cơi Phàm Thánh Đồng
Cư, thuộc phẩm thấp nhất, tức là người
văng sanh hạ hạ phẩm, sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, cũng là A Duy Việt Trí Bồ Tát.
A Duy Việt Trí Bồ Tát th́ địa vị thấp nhất
sẽ là Sơ Trụ Bồ Tát trong kinh Hoa Nghiêm, bằng với
ǵ? Bằng với người tu hành minh tâm kiến tánh, kiến
tánh thành Phật trong thế giới này, bằng với công
phu ấy. Trong hết thảy các kinh do đức Thế
Tôn đă nói trong bốn mươi chín năm, chẳng có lời
này, chỉ riêng kinh này có, đó là pháp kỳ đặc. Nói
cách khác, người hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi
Đồng Cư bèn thành Phật. Có phải là người
ấy thật sự thành Phật? Chẳng thật. V́ lẽ
đó, Ngẫu Ích đại sư đă nói rất hay: Những
người văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, nếu
quư vị nói người ấy đă thành Phật, th́ Kiến
Tư, Trần Sa, Vô Minh một phẩm chẳng đoạn,
họ là phàm phu chánh cống! Nếu quư vị nói họ là
phàm phu, th́ trí huệ, thần thông, đạo lực của
họ bằng với A Duy Việt Trí Bồ Tát, kỳ diệu
thay! Trong các cơi Phật khắp mười phương, chẳng
t́m thấy điều này, chỉ riêng thế giới Cực
Lạc là có, nên mới gọi là hiếm hoi, lạ lùng!
Đối với bọn chúng ta, điều này có sức hấp
dẫn rất lớn, v́ sao? Phiền năo tập khí rất
nặng, biết rất khó, gặp gỡ pháp môn này th́ chúng
ta c̣n được cứu, vui sướng lắm!
Nhưng quư vị thật sự mong thành tựu trong một
đời, thành tựu trí huệ, đức năng,
tướng hảo, th́ đối với những điều
kinh dạy mà giảm bớt một phần [chẳng thực
hiện] cũng không được! Kinh dạy chúng ta tu
như thế nào? Phát Bồ Đề tâm, một mực
chuyên niệm A Di Đà Phật. Quư vị xen tạp những
thứ khác sẽ chẳng được, công phu sẽ bị
phá hủy. Ấn Quang đại sư khuyên dạy chúng ta,
khuyên người niệm Phật, tốt nhất là trong thời
khóa sáng tối hăy niệm thêm một ngàn câu danh hiệu Quán
Thế Âm Bồ Tát, như vậy th́ có tính là xen tạp hay
không? Chẳng tính! V́ sao? Một ngàn câu Phật hiệu ấy
chẳng v́ chính ḿnh, mà v́ chúng sanh khổ nạn trong thế
gian này, v́ bọn họ mà niệm, đó là tâm từ bi. Chẳng
phải là cầu Quán Thế Âm Bồ Tát gia hộ cho ta, chẳng
phải vậy, mà là cầu Quán Âm Bồ Tát gia hộ chúng
sanh khổ nạn trên địa cầu này, và cũng gia hộ
[diệt trừ] các tai biến hiện thời trên địa
cầu, hy vọng địa cầu khôi phục b́nh thường,
chẳng nên có các tai nạn nữa, đặc biệt v́ họ
mà niệm. Do đó, quư vị vẫn là thâm nhập một
môn, huân tu lâu dài, phù hợp với “một mực chuyên niệm” như trong kinh đă
dạy.
Chúng
ta tiếp tục xem phần kế tiếp: “Án viên đốn chư kinh, cụ
thuyết Bổn Sư Thích Tôn phóng quang chi tướng, kim
kinh diệc nhiên” (Xét
ra, các kinh Viên Đốn đều có nói tướng Bổn
Sư Thích Tôn phóng quang, nay kinh này cũng như vậy).
Đức Phật giảng những kinh ấy, trong các kinh
Đại Thừa gần như đều có phóng quang.
Phóng quang cũng nhằm biểu thị pháp. Chúng ta hăy xem
đoạn kinh văn này được nói [như thế
nào] trong năm bản dịch gốc của kinh Vô Lượng
Thọ: “Hán dịch viết:
Ư thời Phật tọa, tư niệm chánh đạo,
diện hữu ngũ sắc quang, sổ thiên bách biến,
quang thậm đại minh. Hiền giả A Nan, tức
tùng ṭa khởi, cánh chánh y phục, khể thủ Phật
túc” (Khi ấy,
đức Phật đang ngồi, nghĩ đến chánh
đạo, mặt Ngài có ánh sáng năm màu biến hiện
mấy trăm ngàn thứ. Ánh sáng hết sức sáng
rực. Hiền giả A Nan liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, chỉnh đốn y phục, dập
đầu lễ dưới chân Phật). Ngài A Nan sau khi sanh
tâm hy hữu, từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh
đốn quần áo, rồi mới hướng về Phật
hành lễ. “Tiền bạch Phật
ngôn: - Kim Phật diện mục quang sắc, hà dĩ thời
thời cánh biến, minh năi nhĩ hồ? Kim Phật diện
mục quang tinh sổ bách thiên sắc, thượng hạ
minh triệt, hảo năi như thị? Ngă thị Phật
dĩ lai, vị tằng kiến Phật thân thể quang diệu,
nguy nguy trùng minh năi nhĩ” (Bạch trước đức Phật rằng:
“Nay vẻ mặt của Phật rạng rỡ, cớ sao
mỗi lúc lại biến đổi sáng rực đến
thế? Nay vẻ mặt đức Phật rạng
ngời tinh thuần có hơn trăm ngàn sắc, trên
dưới sáng tỏ, đẹp đẽ đến
thế. Con từ khi hầu Phật đến nay, chưa
từng thấy thân thể Phật rực sáng, sáng vằng
vặc bội phần đến như thế ấy”). Kinh văn trong
bản Hán dịch, tức Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác
Kinh, đă miêu tả như trên đây, nói tỉ mỉ
hơn phần kinh văn [trong bản hội tập] ở
đây. Ngài A Nan trông thấy quang minh năm màu, lại c̣n biến
hiện mấy trăm ngàn thứ, quang minh rất lớn.
Trong quá khứ, ngài A Nan chưa hề thấy chuyện này,
lần đầu tiên thấy thân tướng của Phật
tốt đẹp dường ấy! “Ngă vị tằng kiến Chí Chân Chánh Đẳng
Chánh Giác” (con chưa từng thấy đấng Chí Chân
Chánh Đẳng Chánh Giác), Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác là
từ ngữ ngài A Nan dùng để ca ngợi đức
Phật. “Quang minh oai thần, hữu
như kim nhật” (quang minh oai thần giống như
hôm nay), “Ngô dịch đồng
chi, duy văn tự sảo giản” (Bản Ngô dịch cũng ghi
giống như vậy, chỉ có điều văn tự
hơi đơn giản hơn), c̣n những bản khác th́
“tắc ngữ nhi vị tường”
(các bản dịch khác có đề cập đến
điểm này, nhưng không ghi tỉ mỉ).
“Ngụy dịch trung lưỡng
độ vân: ‘Quang nhan nguy nguy’, hựu vân: Oai thần quang
quang” (Bản Ngụy dịch hai lượt ghi: “Vẻ
mặt rực sáng ṿi vọi”, lại c̣n ghi: “Oai thần rạng
rỡ”). Bản Ngụy dịch chính là bản dịch của
ngài Khang Tăng Khải được lưu hành rộng
nhất. “Đường dịch
vân: Oai quang hách dịch, như dung kim tụ, hựu như
minh kính, ngưng chiếu quang huy” (Oai quang rạng rỡ như
khối vàng nung, lại như gương sáng tĩnh
lặng, tỏa chiếu sáng ngời). Ở đây, [cụ
Hoàng đă trích dẫn] để cho quư vị thấy các bản
dịch gốc khác nhau, và cũng
có thể khiến cho chúng ta tham chiếu bản hội tập
của Hạ lăo cư sĩ, [sẽ thấy] từng câu, từng
chữ trong bản hội tập của cụ đều
có căn cứ, chẳng phải là viết tùy tiện. Bản
Tống dịch ghi là: “Diện
sắc viên măn, bảo sát trang nghiêm” (vẻ mặt viên
măn, cơi báu trang nghiêm). V́ thế, “ngũ
dịch hợp tham”, [nghĩa là] gộp lại cả
năm bản để xem, “tiện
tri Hán Ngô lưỡng dịch tối tường, dư dịch
năi kỳ giản lược. Duy Tống dịch trung bảo
sát trang nghiêm” (liền biết hai bản dịch đời
Hán và đời Ngô tường
tận nhất, các bản dịch khác chỉ nói giản
lược. Chỉ có bản Tống dịch có câu “bảo sát trang nghiêm”), trong các
bản khác chẳng có, [chỉ riêng bản này] có một câu
như thế. V́ thế, câu này cũng được chép
trong bản hiện tại (bản hội tập), có câu “bảo
sát trang nghiêm”. “Hiển quang
trung hiện sát chi nghĩa” (hiển thị ư nghĩa “trong
quang minh hiện ra cơi nước”). Trong các bản khác, chẳng
có câu này, câu này [có nghĩa] là trong Phật quang thấy
mười phương các cơi Phật. “Khả bổ cổ dịch chi bất túc, do thị
diệc khả kiến hội tập chư dịch chi tất
yếu” ([Câu này] có
thể dùng để bổ túc chỗ thiếu sót của
các bản dịch cũ. Do điểm này, cũng có
thể thấy việc hội tập các bản dịch là
điều tất yếu). V́ thế, hiện nay chúng ta
dùng bản hội tập, giống như năm bản
dịch gốc đều đọc trọn hết.
“Hựu
cổ chú kinh gia, đa vị Bổn Sư thuyết
thử kinh thời vị tằng phóng quang, cái vị
tường khảo Hán Ngô cổ dịch chi cố nhĩ” (Hơn nữa, đa số các
nhà chú thích kinh thời xưa cho rằng khi đức
Bổn Sư nói kinh này chưa từng phóng quang. Đó là do
họ chưa đọc kỹ tường tận các
bản dịch cổ đời Ngô và Hán vậy). Trong
năm bản dịch, có mấy bản tỉnh
lược chuyện phóng quang, nhưng cũng rất khó
nói, v́ đức Thế Tôn đă nhiều lần tuyên thuyết bộ
kinh này, chẳng phải chỉ giảng một lần. Xét
theo nội dung của năm bản dịch gốc, tối
thiểu đức Phật đă giảng ba lần;
nhưng tại Trung Hoa, kinh Vô Lượng Thọ có mười
hai bản dịch, từ mục lục của Đại
Tạng Kinh có thể thấy bảy bản trong số
đó bị thất truyền. Đối với bảy bản
ấy, có thể là c̣n có những sai biệt rất lớn
so với những bản chúng ta trông thấy, không chỉ
là tuyên giảng ba lần. Điều này rất đặc
thù, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh trước nay chưa
hề trùng lặp, chỉ có bộ kinh này được
trùng lặp nhiều lần, điều này cũng nhằm
tuyên nói pháp môn này hết sức thù thắng, hết sức
trọng yếu. Trong tương lai cho đến khi Phật
pháp diệt, pháp vận của đức Thế Tôn là một
vạn hai ngàn năm, khi kinh pháp đă diệt, kinh Vô Lượng
Thọ c̣n lại trên cơi đời một trăm năm, bị
diệt mất cuối cùng. Những tin tức này đều
đáng để cho chúng ta tham khảo, tăng trưởng
tín tâm và nguyện lực của chúng ta.
Kế
đó, cụ Hoàng mới giải thích từng câu. Trước
hết là giải thích chữ Thế Tôn, “chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật. Tịnh Ảnh Sớ viết:
Phật cụ chúng đức, vị thế tôn trọng, cố
hiệu Thế Tôn” (chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật. Tịnh
Ảnh Sớ giảng: “Đức Phật đầy
đủ các đức, do được cơi đời
tôn trọng, nên hiệu là Thế Tôn”). Phật đoạn
sạch vô minh phiền năo tập khí, kinh Hoa Nghiêm nói Phật
thuộc địa vị Diệu Giác, đă chứng đắc
Diệu Giác, trở về tự tánh viên măn. Đạt
đến Diệu Giác, chúng ta hiểu cơi Thật Báo Trang
Nghiêm chẳng tồn tại. V́ sao cơi Thật Báo tồn tại?
Do vô thỉ vô minh phiền năo tập khí chưa đoạn
sạch, nhưng tập khí ấy chẳng trở ngại
sự, chẳng trở ngại quư vị xứng tánh phát
huy trong mười phương thế giới, phát huy trí
huệ và đức tướng trong tự tánh của quư
vị để ứng với hết thảy chúng sanh. Hễ
chúng sanh có cảm, Ngài bèn có ứng. V́ thế, nói thật
ra, Bồ Tát ở trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm chẳng khác
Thường Tịch Quang, vận dụng trí huệ, thần
thông, đạo lực b́nh đẳng, chẳng có sai biệt.
Điểm sai biệt là một đằng đă đoạn
tập khí, một đằng chưa đoạn. Chưa
đoạn th́ ở trong cơi Thật Báo, đoạn hết
th́ ở trong cơi Thường Tịch Quang Tịnh Độ.
Do Thường Tịch Quang tuy chẳng phải là vật
chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, nên lục
căn chẳng duyên được, nhưng nó tồn tại,
khởi tác dụng, chẳng phải là không khởi tác dụng.
Hiện thời, chúng ta nghe các nhà khoa học báo cáo, họ cảm
thấy rất lạ lùng. Đối với vũ trụ,
tức là nói đến toàn bộ không gian, vũ trụ
vĩ mô, họ nói là dùng những dụng cụ khoa học
th́ có thể quan sát đại khái mười phần
trăm của toàn thể vũ trụ. Nói cách khác, c̣n có
chín mươi phần trăm vũ trụ không thấy, họ
cảm thấy rất kỳ quái, [cớ sao] chẳng thấy
được! Họ nói điều này, trong tâm chúng tôi liền
hiểu rơ: V́ sao chẳng thấy? Đă trở về
Thường Tịch Quang. Trở về Thường Tịch
Quang th́ lục căn chẳng có cách nào tiếp xúc, chẳng
phải là nó không tồn tại. Nó tồn tại, nhưng
đă trở về Thường Tịch Quang. Do đó, sự
phát hiện của khoa học giúp cho chúng ta tiến thêm một
bước trong việc lư giải kinh điển, càng biết
những điều ấy là chân thật, chẳng giả.
“Phật cụ chúng đức”
(Phật đầy đủ các đức), Tánh Đức
viên măn, “vị thế tôn trọng”
(được thế gian tôn trọng). “Thế” ở đây là mười pháp giới, tức
lục phàm tứ thánh, chẳng có pháp giới nào không tôn trọng
Phật, nên hiệu là Thế Tôn. Kính Phật, lễ Phật,
niệm Phật là phước huệ song tu. Chúng ta tu hằng
ngày, dường như phước huệ chẳng
tăng trưởng, có phải là Phật chẳng linh? Chẳng
phải vậy! Phước huệ chẳng tăng trưởng
là v́ quư vị chẳng tu đúng pháp. Cớ sao chẳng tu
đúng pháp? Quư vị chẳng có tâm thành kính! Vẫn là
như pháp sư Ấn Quang đă nói rất hay: Quư vị có
mười phần thành kính sẽ được mười
phần phước huệ, quư vị có một phần sẽ
được một phần phước huệ. Vẫn
phải đánh dấu hỏi trong ấy, phước huệ
chẳng thể hiện tiền, đạo lư là như thế
đó. Thế hệ hiện thời đối với Phật
pháp, đối với Thích Ca Mâu Ni Phật hoặc hết
thảy chư Phật mà thật sự có thể sanh khởi
ḷng thành kính rất ư là khó. V́ sao? V́ từ bé chúng ta
đă tiếp nhận nền giáo dục thông thường,
luôn nói tôn giáo là mê tín, tôn giáo gạt người. Quư vị
thấy nhé, những điều này đă mọc rễ
trong tâm chúng ta, thâm căn cố đế, nay tiếp xúc
[Phật pháp], muốn gột sạch những quan niệm
cũ trước đây, tái lập tâm chân thành mới mẻ,
há dễ dàng ư? Người thời cổ niệm Phật,
lễ Phật, xưng tán Phật, v́ sao có hiệu quả
to lớn như vậy? Nếu chẳng có hiệu quả,
làm sao họ có thể tin tưởng được? V́ sao
trước kia có hiệu quả rơ rệt như vậy?
Chẳng có ǵ khác! Từ bé, họ đă được tiếp
nhận sự giáo dục hiếu dưỡng phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng, tôn sư trọng đạo.
V́ lẽ đó, Phật pháp truyền đến Trung Hoa, Phật
là thầy, ư niệm tôn sư trọng đạo bèn nẩy
sanh rất tự nhiên, cho nên hiệu quả rất rơ rệt.
Hiện thời, học Phật thật khó, vô cùng chẳng
dễ dàng, chẳng thể không nhấn mạnh thiện
căn, phước đức, nhân duyên. Quư vị thật
sự có thiện căn, thật sự có phước báo,
hễ nói ra bèn thật sự tin tưởng, thật sự
có thể sanh khởi tâm kiền thành, cung kính, đạt
được phước huệ, những điều
này đều là sự thật ngàn vạn phần xác
đáng.
Tiếp đó lại
nói: “Phật thị thế gian
cực tôn, cố xưng Thế Tôn” (Phật là đấng
tôn quư nhất trong thế gian, nên gọi là Thế Tôn).
Đấng tôn quư nhất trong thế gian ai biết? Bồ
Tát biết, A La Hán biết, thánh hiền thế gian cũng
có thể biết. V́ sao nói Phật là cực tôn? Ngài đă
chứng đắc viên măn tự tánh, đạo lư là
như thế đó. Chúng ta khế nhập Hoa Nghiêm đôi
chút, bèn hiểu đạo lư này. Trong những người
tu hành Bồ Đề đạo, hoặc có thể gọi
là “đạo thành Phật”, có các đẳng cấp, tức
là năm mươi hai đẳng cấp, đức Phật
thuộc giai vị thứ năm mươi hai, tôn quư cùng cực.
So với năm mươi mốt địa vị, Ngài
c̣n ở trên Đẳng Giác Bồ Tát, Đẳng Giác Bồ
Tát được gọi là tôn quư, Phật c̣n cao hơn
Đẳng Giác, nên gọi là “cực tôn”. Từ Đẳng
Giác trở xuống, chẳng có ai không tôn trọng Phật.
Thông thường [chữ Thế Tôn được liệt
kê] trong mười hiệu, phẩm tiếp theo sẽ giảng
chuyện này, giáo pháp Đại Thừa cũng thường
nói, [do Phật] trọn đủ mười hiệu nên gọi
là Thế Tôn. Trong Phật pháp, có một chuyện vô cùng tuyệt
diệu: Phật chẳng phải là độc tôn, “đấng
cực tôn quư trong thế gian chỉ là một ḿnh ta”, chẳng
phải vậy. [Nếu độc tôn] th́ chẳng phải
là Phật pháp. Phật đă nói như thế nào? Đối
với địa vị cực tôn quư trong thế gian, quư vị
cũng có phần! Ai nấy đều như vậy, chẳng
phải là một ḿnh Phật riêng có! Quư vị có thể
đoạn sạch tập khí vô minh phiền năo từ vô thỉ,
chẳng phải là quư vị trở thành cực tôn ư?
Điều này khác với các tôn giáo. Trong các tôn giáo, thần
(Chúa, Thượng Đế, Allah) là cực tôn, bất cứ
ai cũng chẳng thể sánh bằng thần, [trong Phật
giáo] chẳng có lẽ ấy! Phật giáo là ai nấy đều
là Phật, những vị đă thành Phật đều khẳng
định “hết thảy chúng sanh vốn sẵn là Phật”
.
Do
đó, hiện thời nói dân chủ, tự do, cởi mở,
[những điều đó] hoàn toàn thuộc về Đại
Thừa Phật pháp. Dân chủ, tự do, cởi mở chẳng
dễ dàng, chúng ta hăy quan sát cẩn thận. Thế giới
Hoa Tạng dân chủ, tự do, rộng mở. Thế giới
Cực Lạc dân chủ, tự do, rộng mở. Dân chủ,
tự do, cởi mở, nhân dân phải như thế nào th́
mới ḥng thật sự hưởng thụ lợi ích
chân thật của dân chủ, tự do, cởi mở? Ai nấy
đều minh tâm kiến tánh, quư vị sẽ đạt lợi
ích. Nếu đều là mê hoặc, điên đảo th́
dân chủ, tự do, cởi mở sẽ có rất nhiều
vấn đề, chưa chắc đă là một chuyện
tốt đẹp. Cổ nhân nói tới chế độ,
hiện thời nói là chế độ, người thuở
trước gọi [chế độ] là “pháp”. Pháp là
căn cứ quan trọng để quản trị quốc
gia, nhưng pháp chẳng sống động, mà chết cứng.
Nếu người tốt vận dụng pháp, pháp ấy
là tốt đẹp. Nếu gặp kẻ bất hảo vận
dụng pháp, vận dụng pháp tốt nhất để tự
tư tự lợi th́ đối với nhân dân sẽ là hữu
hại vô lợi, mà đối với chính ḿnh là hữu lợi
vô hại, biến thành t́nh trạng như vậy. V́ thế,
cổ nhân nói đến đạo cai trị th́ trong đạo
cai trị, nhân tài là cội nguồn, phải xét xem pháp
được vận dụng bởi người nào. Nói
như vậy rất có lư. Do đó, quy về cội nguồn
th́ chính là giáo dục. Người dân trong nước đều
tiếp nhận sự giáo dục của thánh hiền về
luân lư, đạo đức, nhân quả; trong tuyển cử,
sẽ bầu ra người tốt thật sự. Nếu
chẳng có chuẩn mực ấy, lá phiếu có thể mua
được, giống như buôn bán, chuyện tuyển cử
giống như buôn bán: Mua lá phiếu, mua cho đến khi
chính ḿnh có thể đắc cử, nhất định sẽ
là quơ về một vốn vạn lợi! Ai thua thiệt?
Dân chúng bị thua thiệt! V́ thế, chế độ dân
chủ [phải được thực hiện] ở chỗ
nào? Trước hết, thực hiện giáo dục cho tốt
th́ chế độ dân chủ sẽ nẩy sanh tác dụng.
Chẳng thực hiện giáo dục tốt đẹp,
chưa chắc dân chủ đă là chuyện tốt đẹp.
Cổ
nhân nói đúng lắm, pháp tùy thuộc kẻ nào sử dụng.
Chế độ chẳng tốt đẹp, nhưng con
người tốt đẹp th́ vẫn có thể làm ra
chuyện tốt. Pháp tốt nhất, vô cùng nghiêm mật,
nhưng con người chẳng tốt, sẽ là một mực
làm chuyện xấu, cổ nhân nói như vậy. Ngạn ngữ
Trung Hoa có câu: “Chẳng nghe lời
cổ nhân, bị thua thiệt trước mắt”, lời
cổ nhân có đạo lư to lớn trong ấy. V́ thế,
Trung Hoa mấy ngàn năm bền vững, theo chế độ
đế chế, Trung Hoa có lúc nào là dân chủ, cởi mở
hay chăng? Có! Chính là thời thịnh trị đại
đồng, [điều đó] lại c̣n được
thực hiện tại Trung Hoa. Khổng Tử khẳng
định Trung Hoa vào thời đại Nghiêu, Thuấn,
Vũ là thời thịnh trị đại đồng. Vua
Vũ chẳng có tâm riêng tư, truyền ngôi cho con. V́ sao?
Con trai ông ta quá tốt đẹp, mọi người đều
đề cử người ấy. Nào ngờ truyền
cho con, sau đấy, con ông ta lại truyền ngôi cho con
ḿnh, biến thành độc chiếm thiên hạ. Khi vua
Vũ truyền ngôi cho Hạ Khải[6],
chẳng có tâm ấy! Do vậy, từ thời Hạ Khải
trở về sau, chẳng c̣n là thời đại đồng
thịnh trị nữa, mà biến thành thời Tiểu
Khang. V́ thế, Khổng Tử nói: Từ sau thời Hạ
Khải, là các triều đại Thang (Thương Thang[7])
và Châu, Khổng Tử sanh vào thời Xuân Thu nhà Châu, Ngài sanh
vào thuở đó, gọi thời đó là đời loạn.
Trước thời Ngài, phải là trong khoảng thời
gian một ngàn năm, Trung Hoa thuộc vào thời đại
Tiểu Khang. Xuân Thu Chiến Quốc là đời loạn.
Trong tâm tưởng, [Khổng Tử] thường hoài niệm
thời đại đồng thịnh trị, cũng
thường nghĩ đến thời Tiểu Khang.
Như vậy th́ chúng ta thấy qua kinh điển, đức
Thế Tôn đă giới thiệu tỉ mỉ nhất không
ǵ bằng thế giới Hoa Tạng và Tây Phương Cực
Lạc thế giới, đó là thời đại đồng
thịnh trị, ai nấy đều ngưỡng vọng.
Văng sanh thế giới Cực Lạc chính là tiến nhập
cơi đời đại đồng!
Đối
với câu “oai quang hách dịch”,
[sách Chú Giải] đă giới thiệu
chữ Oai [như sau]: “Oai giả,
hữu uy khả úy vị chi Oai” (Oai (威) là có uy đáng sợ, nên gọi là Oai). Chúng ta thường
nói là “oai nghiêm”. Đức
Phật có oai nghiêm, ở đây [chữ Oai] chỉ “oai thần”, thần thông diệu dụng. Đối với
năng lực của lục căn, mắt của chúng ta
có thể thấy xa đến tận bờ mé của
vũ trụ, đó là nói theo phương diện to lớn,
nh́n theo thế giới vĩ mô. Nếu nh́n theo phương
diện vi tế, sẽ có thể thấy hạt cơ bản.
Các nhà khoa học hiện thời c̣n nói có cái nhỏ hơn
nữa là lượng tử, c̣n gọi là tiểu quang tử,
có thể thấy được! V́ thế, năng lượng
của cái Thấy là chẳng có số lượng. Người
Hoa nói “lớn mà chẳng ra
ngoài, nhỏ mà chẳng ở trong”, đều có thể
thấy, c̣n cặn kẽ hơn khoa học hiện thời.
Khoa học chẳng thể nào sánh bằng Phật pháp,
Lượng Tử Lực Học vẫn chưa phát hiện:
Trong một hạt lượng tử c̣n có thế giới,
thế giới trong ấy và thế giới bên ngoài chẳng
khác nhau. Kinh đă dạy: Phổ Hiền Bồ Tát thường
tiến vào thế giới bên trong vi trần, thế giới
trong vi trần lại có vi trần, trong vi trần ấy lại
có thế giới, trùng trùng vô tận, các nhà khoa học chẳng
phát hiện điều này. V́ thế, hai câu nói ấy của
cổ nhân khiến cho chúng ta cảm thấy chẳng thể
nghĩ bàn. “Lớn mà chẳng
ra ngoài” là nói đến điều ǵ? Nói đến
Thường Tịch Quang, khi đạt đến bờ
mé của thế giới sẽ trở về Thường
Tịch Quang. “Nhỏ mà chẳng
ở trong”, tức là bên trong c̣n có cái bên trong nữa, bên
trong của cái bên trong ấy lại có cái bên trong khác, chẳng
cùng tận. Trong hiện tượng nhỏ nhặt ngần
ấy, nghiễm nhiên chứa đựng thông tin của khắp
pháp giới hư không giới, chẳng thiếu thứ ǵ!
V́ vậy,
có khi chúng tôi nói tới khoa học kỹ thuật hiện
thời, dùng tinh phiến (晶片: chip điện tử),
một con chip to bằng cái móng tay, rất nhỏ. Một
con chip to bằng móng tay út có thể chứa cả một bộ
Đại Tạng Kinh, đúng là phi thường! Nhưng
kinh Phật đă dạy chúng ta, một hạt vi trần,
tức là một quang tử, bé tí xíu như thế, chẳng
thấy bằng mắt thường, lại chứa đựng
viên măn tin tức của khắp pháp giới hư không giới.
Quư vị nói xem: Khoa học hiện thời làm sao có thể
sánh bằng, thua kém rất xa! Khi tôi học Phật, tiên sinh
Phương Đông Mỹ đă giới thiệu cho tôi biết
Phật pháp, [cụ đă nói] Phật pháp là đỉnh cao
nhất trong triết học của toàn bộ thế giới.
Chúng tôi học Phật đă nhiều năm ngần ấy,
nay phát hiện, trong Phật pháp có khoa học đạt
đến tột đỉnh so với khoa học của
toàn thể thế giới. Những vấn đề mà
khoa học và triết học chẳng thể giải quyết
đều được giải đáp trong Phật pháp,
kỳ diệu thay! Phật pháp dùng phương pháp ǵ để
giải quyết? Thiền Định. Thiền Định
là ǵ? Buông xuống là được! Phật pháp dạy quư
vị buông xuống, buông chấp trước xuống,
buông phân biệt xuống, buông khởi tâm động niệm
xuống, quư vị liền kiến tánh. Tánh là một thứ
hết sức vi diệu, điều ǵ cũng chẳng phải
là nó, nhưng nó có thể biến ra hết thảy vạn
vật. Y báo và chánh báo trang nghiêm như kinh Phật thường
nói, đều do nó biến hiện, biến hiện như
thế nào và quá tŕnh biến hiện đều được
giảng trong kinh rất cặn kẽ, rất minh bạch.
Do vậy,
xét từ những phương diện này, chúng ta chẳng
thể không bội phục cổ nhân. Người hiện
thời xem thường cổ nhân, v́ hiện thời khoa học
tiến bộ, người thời cổ chẳng có khoa học,
sai mất rồi! Người hiện tại thua kém cổ
nhân rất xa! Khoa học kỹ thuật hiện tại phải
dùng Toán Học, phải sử dụng các dụng cụ
khoa học tiên tiến, cổ nhân chẳng cần, cổ
nhân dùng Thiền Định. Hiện tượng đầu
tiên sau khi nhập Định là thời gian và không gian chẳng
có. Trong Định, có thể thấy quá khứ, mà cũng
có thể thấy vị lai, có thể thấy cơi này, có thể
thấy phương khác. Do chẳng có thời gian, nên chẳng
có trước sau. Do chẳng có không gian, nên chẳng có khoảng
cách. Quư vị thấy cả khoa học lẫn triết học
đều hướng tới những điều này,
nhưng chẳng làm được! Phật pháp cho biết:
Từ trong Thiền Định, sẽ có thể làm
được. Phật, Bồ Tát có thể làm được.
Phật, Bồ Tát bảo mỗi người chúng ta đều
có thể làm được. Do đó, quư vị chẳng làm
được là v́ chính quư vị chẳng chịu buông xuống.
Điều đầu tiên quư vị chẳng thể buông xuống
là chấp trước. Nói cách khác, quư vị chẳng đạt
được mức Thiền Định sơ cấp.
Thiền Định cao cấp th́ không chỉ buông chấp
trước xuống, mà phân biệt cũng buông xuống.
Thiền Định cao nhất là Thiền Định của
Pháp Thân Bồ Tát, ngay cả khởi tâm động niệm
đều buông xuống, thật sự đạt tới
tŕnh độ lục căn tiếp xúc cảnh giới lục
trần mà không khởi tâm, chẳng động niệm. Cảnh
giới ấy chính là t́nh huống chư Phật, Bồ Tát
ứng hóa trên thế gian; đó là oai thần của Phật,
Bồ Tát.
Tiếp
đó, [cụ Hoàng] trích dẫn: “Thắng
Man Bảo Quật viết: Ngoại sử vật úy, mục
chi vi Oai. Nội nan trắc độ, xưng chi vi Thần”
(sách Thắng Man Bảo Quật[8] giảng:
“Ngoài th́ khiến cho chúng sanh kiêng sợ, nên gọi là Oai,
trong th́ khó thể ḍ lường bèn gọi là Thần”), giảng
giải hai chữ Oai Thần. Chữ Vật (物) chỉ chúng sanh trong mười pháp giới. Sở
dĩ Ngài (Gia Tường Cát Tạng đại sư) không
dùng chữ Nhân (người), mà dùng chữ Vật; v́ nếu
nói là “người”, sẽ chỉ có nhân đạo trong
mười pháp giới, chẳng bao gồm những pháp giới
khác. Dùng chữ Vật sẽ có phạm vi to lớn, trên là
tứ thánh, dưới là lục đạo. Hữu t́nh
chúng sanh trong tứ thánh lục đạo đều có cảm
giác kính sợ, nên gọi là Oai, “mục
chi vi Oai” [có nghĩa là như vậy]. Chúng ta kém xa Ngài về
trí huệ và đức năng, nên tâm kính sợ tự nhiên
nẩy sanh. “Nội nan trắc
độ” [nghĩa là], đối với trí huệ, thần
thông, và đạo lực của Ngài, chúng ta chẳng có cách
nào tưởng tượng là cao bao nhiêu, sâu cỡ nào! Thật
ra, đức Phật đă giảng đạo lư này rất
rơ ràng, đối với oai thần của Phật như
đă được hiển hiện, biểu hiện, mỗi
người chúng ta có [oai thần ấy] hay không? Có, chẳng
thua kém Phật, nhưng chẳng thể hiển hiện. V́
sao chẳng hiển hiện được? Do bản thân
chúng ta có chướng ngại, [chướng ngại] chính
là v́ có phiền năo, tập khí. Phiền năo, tập khí khiến
chúng ta mê mất cái tâm thanh tịnh. Chúng ta bộp chộp,
hời hợt, khiến cho cái tâm b́nh đẳng bị chôn
vùi, do vậy mà mê muội, chẳng giác.
Thật ra, nếu
chúng ta đă học bộ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán của
quốc sư Hiền Thủ, Ngài đă giảng rất rơ
ràng: Bất luận hiện tượng vật chất hoặc
hiện tượng tinh thần, đối với chánh báo
bèn lấy một sợi lông. Lông trên thân, chót đầu sợi
lông, [được gọi] là “mao
đoan” (毛端). Đối với y báo, bèn lấy
một vi trần, vi trần quá nhỏ, chẳng thấy
được, một hạt cát th́ quư vị thấy
được, một hạt cát, cát rất mịn, giống
như bột ḿ. Một hạt cát th́ quư vị trông thấy,
nhưng hiện tượng dao động của nó, chúng
ta chẳng nh́n thấy. Nó có [hiện tượng dao động
hay không]? Có! Hiện tượng dao động có ba tính chất
đặc biệt:
1) Thứ nhất
là “trọn khắp pháp giới”.
Sợi lông trên thân chúng ta là thật, chẳng giả. Dao
động mà bất động, tức là không lay động,
th́ hiện tượng ấy sẽ chẳng tồn tại.
Rất khó có là hiện thời, điều này đă
được các nhà khoa học Lượng Tử Lực
Học khẳng định, họ nói hiện tượng
vật chất là ǵ? Họ đă hiểu rơ bản chất
của vật chất, [khẳng định]: Chẳng có vật
chất! Vật chất là do ư niệm tích lũy liên tục
sanh ra huyễn tướng. V́ thế, chẳng có hiện
tượng dao động ấy th́ thứ ǵ cũng đều
chẳng có, vật chất lẫn tinh thần đều
chẳng có. Hết thảy hiện tượng toàn là do dao
động sanh ra. Dao động vừa mới động,
liền trọn khắp pháp giới, tốc độ ấy
nhanh lắm! Đối với chuyện “trọn khắp
pháp giới”, chúng ta hăy nghĩ xem: Ánh sáng có tốc độ
đi từ mặt trời đến địa cầu,
khoảng cách ấy chẳng đáng kể là xa, [nhưng phải
mất thời gian] khoảng hơn tám phút, nhưng hiện
tượng ấy (hiện tượng dao động của
một sợi lông) vừa mới động bèn trọn khắp
pháp giới. Đó là đặc tánh thứ nhất.
2) Đặc tánh
thứ hai: “Có thể sanh ra vạn
pháp”. Nó là cơ sở và căn bản của hết thảy
vạn pháp. Tất cả hết thảy vạn pháp do hiện
tượng dao động tạo thành. Lại c̣n chẳng
có trước, sau, do tốc độ quá nhanh, ánh sáng chẳng
thể sánh bằng, thua kém rất xa! Gần đây nhất,
chúng tôi thấy một tin tức, các nhà khoa học phát hiện
một thái dương hệ ngoài không gian. Họ quan sát, có
người nói là nó gồm năm hành tinh, có người
nói là bảy hành tinh, xoay quanh mặt trời, rất giống
địa cầu, cách chúng ta một trăm hai mươi
bảy năm ánh sáng (quang niên). Ánh sáng [từ bên đó chiếu
đến địa cầu] phải mất một
trăm hai mươi bảy năm, tốc độ ánh
sáng đấy nhé! Sợi lông của chúng ta vừa động,
liền trọn khắp pháp giới, tốc độ ánh
sáng chẳng thể sánh bằng! Chư vị hăy suy nghĩ
đi!
3) Điều sau
đây rất quan trọng, đó là đặc tánh thứ
ba: “Hàm dung Không Hữu” (chứa
đựng Có và Không). Chúng ta thường nói “hàm dung Không Hữu” là “tâm bao thái hư, lượng châu
sa giới”. Hàm (含) là ǵ? Là hư
không. Bao trùm cả hư không, trong ấy chứa đựng
cả hư không, dung nạp vạn hữu. Toàn thể
vũ trụ đều ở trong đó. Tâm lượng
trong một sợi lông của chúng ta lớn ngần ấy,
nay tâm lượng của chúng ta biến thành nhỏ hẹp
ngằn này, ngay cả một người c̣n chẳng thể
dung nạp, quư vị nói có đáng thương xót hay
chăng? Tâm lượng trong một lỗ chân lông hay một
sợi lông của chúng ta đều to dường ấy,
đều có thể bao trùm hư không pháp giới. Quư vị
hăy nói xem: Chúng ta làm người mà đă làm thành cái dạng
ǵ mất rồi? Rất khó chấp nhận, chẳng thể
bào chữa được! Khoa
học cận đại ngày càng liên quan mật thiết với
Phật pháp, đó là chuyện tốt đẹp, đó là
ǵ? Đó là những chỗ rất khó hiểu. Do vậy,
chúng ta bội phục cổ nhân, cổ nhân chẳng có
căn cứ khoa học, thế th́ họ hiểu bằng
cách nào? Từ chỗ này, chúng ta có thể nghĩ: Tâm cổ
nhân định. Cổ nhân dùng phương pháp ǵ để
tin sâu chẳng ngờ những cảnh giới trong kinh Phật?
Từ trong Định, họ thấy được. Tâm
thanh tịnh là định, tâm thanh tịnh sanh trí huệ,
có đạo lư, chẳng phải là vô lư!
“Quang giả, quang minh dă. Tự
oánh vị chi Quang, chiếu vật vị chi Minh, tức
phóng quang chiếu diệu chi nghĩa” (Quang là quang minh. Tự tỏa sáng là Quang, chiếu soi
vạn vật là Minh, cũng có nghĩa là phóng quang chiếu
rạng ngời). Đó là “oai quang hách dịch”, “hách dịch” (赫奕) có nghĩa là h́nh trạng rất lớn. “Tự oánh” (自瑩) là bản thân có ánh sáng. Điều này là thật. Do
Lượng Tử được gọi là Tiểu Quang Tử,
nên có thể thấy chính nó có ánh sáng. Ánh sáng ấy giống
như ánh chớp, mau hơn tia chớp. Thật ra, ánh chớp
quá chậm, nên mắt thường có thể trông thấy.
C̣n ánh sáng của Lượng Tử quá nhanh, mắt thường
chẳng thể nh́n thấy, ắt phải nhờ vào dụng
cụ, máy móc tinh vi quư vị mới có thể phát hiện.
Nhưng chúng tôi đă nói, trong kinh đức Phật thường
nói đến điều này, đối với bản
năng (năng lực sẵn có) của chúng ta, năng lực
sẵn có của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đều
là khắp pháp giới hư không giới. Chúng ta thấy như
vậy, mà nghe cũng như vậy. Mũi ngửi, lưỡi
nếm, thân thể tiếp xúc, đều là khắp pháp giới
hư không giới. Nói theo phương diện tinh thần
là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, chúng ta có thể tiếp
nhận. Tất cả hết thảy chúng sanh trong khắp
pháp giới hư không giới, các chúng sanh ấy là các hiện
tượng do các duyên ḥa hợp mà sanh khởi, nên gọi
là chúng sanh. Bao gồm những ǵ? Bao gồm động vật,
thực vật, khoáng vật và các hiện tượng tự
nhiên, dùng danh từ này (“chúng sanh”) để bao gồm toàn bộ.
Những hiện tượng ấy có cùng một Thể, lại
c̣n tương thông lẫn nhau. V́ thế, nếu quư vị
tu hành đạt đến một mức độ càng
cao, thân tâm càng linh mẫn, những tin tức cực kỳ
vi tế trong các thế giới phương khác, quư vị
đều có thể cảm nhận được. Thân quư
vị giống như một cỗ máy tiếp nhận sóng
điện, đồng thời bản thân chúng ta cũng
phát sóng ra ngoài, nên khắp pháp giới hư không giới giống
hệt như mạng Internet. Chẳng phải là một
ḿnh chúng ta có thể phát xạ, mà ư niệm trong đầu
óc của chúng ta cũng có thể phát xạ. Đối với
mỗi tế bào, phải hiểu tế bào do các phân tử
hợp thành, phân tử do các nguyên tử hợp thành, nguyên tử
do các điện tử hợp thành, sau này cũng nói đến
quang tử, tiểu quang tử, lượng tử, trên thân
có bao nhiêu [hạt như vậy] đều có thể phát xạ,
đều có thể tiếp thu. Đó là chân tướng sự
thật.
Nhưng
nay chúng ta đang phát xạ mà chẳng cảm nhận
được, khi tiếp nhận cũng chẳng cảm
nhận, hồ đồ đến mức cho là chuyện
dĩ nhiên, nên gọi là mê hoặc, điên đảo. Đức
Phật nói, Phật có năng lực ấy, Pháp Thân Bồ
Tát có năng lực ấy, tức là các Ngài đă hoàn toàn
khôi phục năng lực ấy. Từ chỗ này, chúng ta
mới hiểu chúng ta đă mê đến mức độ
nào, v́ sao chúng ta chôn vùi bản năng? Đức Phật
nói: Thật ra, bản năng chẳng mất đi, mà là mê
mất, chỉ cần quư vị giác ngộ, nó bèn hiện
tiền. Nay chúng ta đă hiểu, đă giác ngộ, nhưng
giác ngộ th́ vẫn chưa được, quư vị
chưa buông xuống. Buông xuống là thật sự giác ngộ;
chưa buông xuống là giả giác ngộ. Buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, quư
vị thật sự giác ngộ. Quư vị thấy trong hiện
tại, chúng ta khởi tâm động niệm vẫn là có tự
tư tự lợi, vẫn có thị phi, nhân ngă, làm sao gọi
là giác ngộ cho được? Chúng ta cách biệt giác ngộ
rất xa, nhưng chúng ta cũng rất khó có! Từ kinh
điển, chúng ta có được những tin tức về
chân tướng sự thật ấy, điều này khá khó
khăn. Kinh điển bảo cho chúng ta biết các chân
tướng sự thật ấy, nay chúng ta phải tu tập,
y giáo tu hành th́ mới có thể thật sự khế nhập
cảnh giới. Những ǵ được nói trong kinh
điển toàn là trí huệ và đức năng của
chính chúng ta. Đức Phật giảng kinh chẳng phải
là giảng cho chúng ta nghe. Nếu quư vị nói Ngài giảng
cho chúng ta nghe th́ sai mất rồi, chúng ta đă khinh nhờn
Phật! Phật dạy chúng ta chứng đắc, giảng
cho quư vị nghe, để quư vị nương theo
phương pháp ấy mà cầu chứng, thật sự có
thể chứng đắc. Sau khi quư vị đă chứng
đắc, sẽ hoàn toàn giống với những ǵ đức
Phật đă giảng.
Những thứ rất
sâu, rất thần kỳ, rất kỳ đặc này,
đúng là khó khăn, nhưng chẳng phải là nói dối.
Quư vị thấy sau khi đă đoạn vô minh, hăy c̣n có tập
khí, phải đoạn sạch tập khí, nhưng chẳng
có cách nào đoạn tập khí, cứ để mặc nó,
tự nhiên sẽ chẳng c̣n nữa! Cứ để lâu
ngày, nó sẽ nhạt bớt. Thời gian bao lâu? Ba đại
A-tăng-kỳ kiếp, tập khí ấy mới hoàn toàn chẳng
có, quư vị biết [đoạn trừ] tập khí có bao
nhiêu khó khăn! Nhưng chỉ cần đoạn vô minh, tập
khí hăy c̣n vẫn chẳng sao cả, nó chẳng trở ngại
sự, đối với trí huệ, thần thông, đạo
lực, tự thọ dụng và tha thọ dụng trong tự
tánh đều chẳng có chướng ngại mảy may.
Đây cũng chẳng phải là một chuyện dễ
dàng, dễ dàng nhất vẫn là sanh về thế giới
Cực Lạc, dễ dàng hơn nhiều! Tối thiểu
chúng ta có thể tu tập đạt tới cảnh giới
như Sơ Tổ Tịnh Tông là Huệ Viễn đại
sư. Viễn Công đại sư niệm Phật, trong
đời Ngài đă thấy thế giới Cực Lạc
trong Định, niệm Phật nhập Định,
nhưng chưa hề nói với ai, chúng ta phải học
theo điều này. Lần thấy [thế giới Cực
Lạc] khi văng sanh là lần cuối cùng, tức là lần
thứ tư, Ngài bảo mọi người, ta sắp tới
thế giới Cực Lạc, ta đă thấy thế giới
Cực Lạc. Người khác hỏi Ngài: “T́nh trạng
như thế nào?” [Ngài đáp]: “Giống hệt như kinh
đă nói”.
Thời Ngài, kinh Tịnh
Độ là một quyển, tức kinh Vô Lượng Thọ.
Chúng ta muốn biết bản đó là bản nào, nhưng
trong thời đó đă có mấy bản dịch. Viễn
Công đại sư là người sống vào thời
Đông Tấn, [vào thời ấy], bản dịch của
ngài Khang Tăng Khải đă xuất hiện, bản dịch
Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh đời Hán [cũng
có]. Có thể là hai ba bản dịch Ngài đều đọc,
nhưng các bản dịch đời Đường,
đời Tống quyết định chẳng có, v́ Ngài sống
trước thời Đường, Tống. Kinh Di Đà
c̣n chưa được dịch ra. Do vậy, kinh bổn
căn cứ để Huệ Viễn đại sư lập
Đông Lâm Niệm Phật Đường Phật ở
Lư Sơn sớm nhất chính là quyển kinh này. Kinh Quán
Vô Lượng Thọ Phật c̣n chưa phiên dịch, kinh
Di Đà chưa xuất hiện, chỉ có ḿnh kinh này. Ngài
nói “giống hệt như trong
kinh đă nói”, tức là giống như trong kinh Vô Lượng
Thọ đă nói. Nay chúng ta có bản hội tập tốt
đẹp, toàn bộ những điều được
nói trong năm bản dịch đều đă có, bản
này hoàn chỉnh nhất. Chúng ta cũng có thể giống
như Viễn Công đại sư, thật sự thấy
Tây Phương Cực Lạc thế giới, chính ḿnh có
tín tâm quyết định văng sanh. Có thể sanh về Tây
Phương thế giới hay không, kinh đă nói rất
hay: Ba điều kiện là Tín, Nguyện, Hạnh. Nay chúng
tôi c̣n thêm vào ba căn nữa, v́ sao Ngài chẳng nói [mà nay
chúng tôi lại thêm thắt]? Người thuở ấy
thường là ai nấy đều có đủ ba căn,
nên chẳng cần phải nói! Ba căn ấy đă học
từ bé, do cha mẹ trong nhà dạy, ai nấy đều
có, thâm căn cố đế. Chẳng giống như
trong thế giới hiện thời, thế giới hiện
thời chẳng có ba căn. Chẳng có ba căn th́ Tín, Nguyện,
Hạnh chẳng vững vàng, nên người tu Tịnh
Độ đông đảo, văng sanh ít ỏi. Thuở ấy,
họ tu Tịnh Độ, đúng là “vạn người tu, vạn người đến”,
rất ít ai nói: “Tu Tịnh Độ chẳng thể văng
sanh”, v́ quá ít, hiện thời quá nhiều! Trước kia,
thầy Lư bảo chúng tôi: “Một
vạn người tu Tịnh Độ niệm Phật,
thật sự văng sanh chỉ có ba bốn người”.
Do nguyên nhân ǵ? Chẳng có căn! V́ sao căn là trọng yếu?
Vừa mở kinh điển ra, “thiện
nam tử, thiện nữ nhân”, quư vị chẳng phải
thiện nam tử, mà cũng chẳng phải thiện nữ
nhân, làm sao có thể văng sanh cho được? Vun trồng
bền vững ba căn, quư vị sẽ là thiện nam tử,
thiện nữ nhân, chuyện là như vậy đó. Người
thuở trước chẳng cần nói đến chuyện
vun trồng căn cội, do ai nấy đều có căn.
Hiện tại, chẳng thể không nhắc đến
chuyện này. Không đề cập chuyện này, sẽ chẳng
thể văng sanh. Có ba căn ấy th́ Tín, Nguyện, Hạnh
của quư vị đều có căn. Tín có căn, Nguyện
có căn, Hạnh có căn, lẽ đâu quư vị chẳng
văng sanh! So sánh giữa thời này và thuở ấy, khác nhau!
Đối với
quang minh, chính ḿnh có ánh sáng th́ gọi là Quang, quang chiếu
sáng vật bên ngoài th́ gọi là Minh. Đó chính là ư nghĩa của
câu “phóng quang chiếu diệu”.
“Quang minh hữu nhị dụng”, [nghĩa là quang minh] có
hai thứ tác dụng: Thứ nhất là “phá ám” (phá tối tăm), thứ hai là “biểu pháp”. “Nhân Phật chi quang
minh, chánh thị trí huệ chi tướng” (do quang minh của
Phật đúng là tướng trí huệ). V́ vậy, quang
minh là một tướng. V́ sao các nhà Lượng Tử Lực
Học hiện thời phát hiện lượng tử có
ánh sáng? Ánh sáng do đâu mà có? Ánh sáng do trí huệ mà có. Đức
Phật dạy: “Hết thảy
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”. Nếu trong tự tánh chẳng có trí huệ,
sẽ chẳng có quang. Trong tự tánh có trí huệ viên măn;
khi mê, nó trọn chẳng bị mất đi, nên vẫn là
phóng quang. Sự phóng quang ấy là ǵ vậy? Sự phóng
quang ấy được khoa học hiện tại gọi
là “dao động”, v́ ánh sáng chỉ xẹt thoáng qua. Di Lặc
Bồ Tát đă nói rất rơ ràng, trong một cái khảy ngón
tay có bao nhiêu [tế niệm]? Chớp nháng mấy lần?
Ba trăm hai mươi triệu lần! Quư vị thấy
trong một cái khảy ngón tay [là như vậy đó]. Tôi
tin là có người khảy nhanh hơn tôi. Tuổi tôi
đă già, khảy chẳng lẹ. Nếu khảy mau, đại
khái là một giây có thể khảy năm lần. Nếu khảy
năm lần, phải là một ngàn sáu trăm triệu.
Trong một giây là một ngàn sáu trăm triệu lần, làm
sao quư vị có thể thấy cho được?
Quang
ấy chính là mỗi một lần [tế niệm sanh diệt]
th́ là một lần chớp nháng. Một giây là một ngàn
sáu trăm triệu lượt, chẳng
dễ dàng, nhưng đă bị các nhà khoa học phát hiện.
Đó là Bát Nhă quang trong tự tánh đang động, hễ
động, nó liền biến thành vật chất, biến
thành hiện tượng tinh thần. Do trong tự tánh có thấy,
nghe, hay, biết; sau khi mê, thấy, nghe, hay, biết biến
thành ǵ? Biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Trong Thọ có thấy, nghe, hay, biết, trong Tưởng
cũng có thấy, nghe, hay, biết. Trong Hành và trong Thức
thảy đều trọn đủ. Chúng ta có thể cảm
nhận Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nhưng chẳng
thể cảm nhận thấy, nghe, hay, biết, v́ chúng vi tế!
Chúng là Tánh Đức. Các nhà khoa học chẳng kiến
tánh, nên chẳng t́m thấy căn nguyên này. Lượng Tử
do đâu mà có? Từ trong Không sanh ra Có, họ chỉ thấy
điều ấy. Xác thật là từ trong Không sanh ra Có,
tuy nhiên, nó chớp nháng một chút rồi lại chẳng
c̣n. V́ thế, chúng ta thấy vật chất là tướng
liên tục, chúng do ư niệm tích lũy, họ (các nhà khoa học)
nói là ư niệm tích lũy, do tích lũy liên tục bèn sanh ra
huyễn tướng. Hiện tượng vật chất
và hiện tượng tinh thần đều là như vậy.
Ở đây, đă nói rơ ràng, quang minh chính là tướng trí
huệ.
“Hách giả, minh dă. Dịch giả,
thịnh dă” (Hách là sáng, Dịch là tràn trề), [ư nói] quang
minh rất lớn, hết sức rạng rỡ. “Cố tri oai quang hách dịch, biểu
Phật sở phóng chi quang, hùng mănh hữu oai, minh diệu
thịnh đại” (V́ vậy, câu “oai quang hách dịch” hàm ư quang minh do đức
Phật phóng ra hùng mănh, có oai thế, sáng chói, số
lượng rất nhiều). Phật quang chiếu khắp! “Thử hạ dĩ dung kim dụ
chi” (Tiếp theo
đó, dùng ngay h́nh ảnh vàng được nung chảy
để sánh ví): Kế đó là vận dụng tỷ
dụ. “Như kim dung tụ”
(Như khối vàng được nung chảy), vàng sau khi
được nung chảy, nh́n rất đẹp. Bản thân vàng rất
đẹp, lại dùng nhiệt độ cao để nung
chảy vàng thành chất lỏng, ánh vàng nung vô cùng xinh đẹp,
dùng điều này làm tỷ dụ. “Kim sắc hoảng diệu, dung kim di thậm. Dụ
Phật quang minh, như dung kim tụ tập, cố viết
như dung kim tụ” (Sắc vàng vốn đă chói sáng, khi bị nung
chảy c̣n chói lọi hơn nữa. Sánh ví quang minh của
Phật như vàng bị nung chảy ra đọng lại,
cho nên nói là “như
khối vàng nung”). Chúng ta đọc những điều
này, quan trọng nhất là biết Phật và chúng ta
chẳng hai, chẳng khác, những thứ tốt
đẹp nơi Ngài chúng ta thảy đều có phần,
hay ở chỗ này! Nói theo tôn giáo, [những phẩm
chất, đức năng mà] Thần có, chúng ta chẳng
có, vĩnh viễn phải phục tùng thần. Phật pháp
chẳng phải vậy, ai nấy đều là Phật,
b́nh đẳng. Những ǵ mà đức Phật có như
trong kinh Phật đă nói, trong tự tánh của chúng ta
đều có toàn bộ, chỉ cần chúng ta buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, sẽ
chứng đắc toàn bộ. Đây là chỗ thù thắng
khôn sánh của Phật pháp, là chỗ hoàn toàn khác biệt giữa
Phật pháp và các tôn giáo, chúng ta chớ nên không biết, tuyệt
đối chẳng phải là mê tín. Hôm nay đă hết thời
gian rồi, chúng ta học tới chỗ này.
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 69
hết
[1] Đại Pháp Cự Đà La Ni Kinh gồm 20 quyển, 52 phẩm, do ngài Xà Na Quật Đa dịch vào đời Tùy. Do Thiện Oai Quang thiên tử thỉnh vấn pháp Đà La Ni, đức Phật bèn nhập Đại Lực Trang Nghiêm Tam Muội, thuật lại chuyện chư Như Lai đă phóng quang nói kinh này trong đời quá khứ, và cách hành tŕ các pháp Đà La Ni.
[2] Thích Tăng Triệu (394-414) là đệ tử đắc ư và nổi danh nhất của La Thập đại sư. Ngài họ Trương, người xứ Kinh Triệu (Trường An), nổi tiếng là một nhà lư luận và tư tưởng của Đại Thừa Phật giáo tại Trung Hoa. Ngài được coi như đă có công bản địa hóa tư tưởng Trung Quán của Bát Nhă và mạnh dạn dùng những khái niệm sẵn có trong triết học Trung Hoa để diễn đạt tư tưởng Bát Nhă. Trước khi học Phật, Ngài từng học Nho, đặc biệt yêu thích Lăo Trang, nhưng vẫn chưa cảm thấy thỏa măn. Đến khi đọc kinh Duy Ma Cật, tỉnh ngộ, bèn xuất gia, nghiên cứu Phật học càng tinh thâm, chưa đầy hai mươi tuổi mà danh tiếng đă vang rền khắp nước. Về sau, nghe ngài La Thập đến xứ Cô Tạng (nay thuộc huyện Vũ Oai, tỉnh Cam Túc), Sư t́m dến, vô cùng ngưỡng mộ, tận lực theo hầu. Khi ngài La Thập đến Trường An, Ngài xin tham gia dịch trường, cùng với các vị Đạo Dung, Tăng Duệ và Đạo Sanh được gọi là Quan Trung Tứ Kiệt. Ngài đặc biệt tinh thông Trung Quán, nên được người đương thời tôn xưng là bậc Giải Không Đệ Nhất. Ngài cũng tham gia dịch trường của ngài Phật Đà Da Xá để dịch Tứ Phần Luật và Trường A Hàm Kinh. Tiếc là Ngài mất rất sớm. Pháp sư Ấn Thuận hết sức ngưỡng mộ ngài Tăng Triệu, tôn xưng Ngài là đệ nhị tổ của Tam Luận Tông.
[3] Câu này hơi khó hiểu nên chúng tôi mạn phép vẽ rắn thêm chân như sau: Theo Duy Thức Học, Tướng Phần (vật chất) phát sanh từ Kiến Phần (cái tâm phát sanh tác dụng nh́n thấy). Luận điểm này được diễn tả bằng câu: “Kiến th́ nhất định phải thấy, hễ trông thấy bèn có huyễn tướng”. Tiếp đó, cổ nhân dùng một tỷ dụ giả thiết như sau: Trừng mắt nh́n hồi lâu, do mắt mỏi, sẽ thấy các đốm sáng chao lượn trước mắt”. Tức là do từ cái nh́n đó mà có huyễn tướng xuất hiện. Ḥa thượng nói tỷ dụ này không phù hợp lắm (v́ mắt mỏi mà có tướng hoa đốm, chẳng liên quan đến vọng tâm), vẫn chưa giải thích rơ v́ sao từ Kiến Phần sanh ra Tướng Phần, nên mới bảo là: “Dùng cách ấy để nói th́ không khoa học”. Ḥa thượng cho rằng: Do Kiến Phần (tác dụng của tâm thức, tức là vọng tâm), vọng tâm thường sanh khởi ư niệm, vật chất do ư niệm tích lũy tạo thành. Đấy chính là đă nói rơ Kiến Phần sanh ra Tướng Phần.
[4] Chùa Quán Tông ở thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang, được sáng lập vào năm 1081 bởi pháp sư Giới Nhiên, ngài Giới Nhiên là đồ tôn đời thứ năm pháp sư Tri Lễ (tổ thứ mười bảy của tông Thiên Thai), thoạt đầu chùa mang tên Thập Lục Quán Đường trực thuộc chùa Diên Khánh. Chùa gần như hoang phế dưới thời Quang Tự, ngài Đế Nhàn đă trùng tu chùa này, khôi phục tông phong Thiên Thai. Chùa trải qua nhiều nỗi thăng trầm: Năm 1951 bị nhà nước tịch thu biến thành trường huấn luyện cán bộ, rồi trường Đảng vào năm 1958, phá bỏ rất nhiều kiến trúc trong chùa. Đến năm 1993, mới được trả lại cho Phật giáo, và đưa về trực thuộc chùa Diên Khánh như cũ.
[5] Tứ Thiên Hạ là danh xưng khác của Tứ Bộ Châu (Đông Thắng, Tây Ngưu, Diêm Phù và Bắc Câu). Gọi là Tứ Thiên Hạ v́ tầng trời ngay trên Tứ Bộ Châu là tầng trời của bốn vị Thiên Vương (Đa Văn, Quảng Mục, Tŕ Quốc, Tăng Trưởng). “Tứ thiên hạ vi trần” nghĩa là số vi trần trong một tứ thiên hạ.
[6] Vua Vũ họ Tự, thị tộc Hạ Hầu, tên là Vũ, tự Văn Mạng, là cháu đời thứ tám của Hiên Viên Hoàng Đế, được phong tước Hạ Bá đời vua Nghiêu, nên sử thường gọi ông là Bá Vũ hay Hạ Vũ. Cha vua Vũ là Cổn, được vua Nghiêu phong thái ấp ở Tung Sơn, sai trị thủy (chống nạn lụt). Ông Cổn dùng biện pháp đắp đê ngăn nước, nào ngờ lụt dữ dội hơn, bị phạt. Vua lại sai ông Vũ đảm nhiệm. Ông Vũ trị thủy thành công, được vua Thuấn nhường ngôi, lập ra vương triều Hạ, đóng đô ở Dương Thành, sau đổi sang Âm Thành. Khải là con của Hạ Vũ và Đồ Sơn Thị. Do chồng bận rộn trị thủy đến nỗi ba lần đi qua nhà, không ghé vào thăm, bà Đồ Sơn Thị sáng tác ra khúc hát Hầu Nhân Hề Y để tỏ ḷng nhớ chồng. Khải thiên đô sang Dương Địch, và truyền ngôi cho con là Thái Khang. Nhà Hạ truyền được mười chín đời.
[7] Thương Thang là tên vị vua sáng lập nhà Thương, ông họ Tử, tên Lữ (Lư), ông là thủ lănh của bộ tộc Thương. Do vậy, khi lật đổ vua Kiệt nhà Hạ, ông đă đặt tên cho vương triều mới là Thương. Sách cổ chỉ ghi ông được gọi với nhiều tên như Vũ Thang, Thiên Ất, Thành Thang, Thành Đường, Đại Ất, Cao Tổ Ất v.v… nhưng không giải thích v́ sao Thương Thang có các tên gọi đó.
[8] Sách Thắng Man Bảo Quật do ngài Cát Tạng viết vào đời Tùy, là tác phẩm chú giải Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh tường tận nhất. Đầu tiên, Ngài dùng Ngũ Trùng Huyền Nghĩa để giải thích tựa đề, thuật duyên khởi, biện định tông chỉ v.v… Kế đó, tán thán công đức của chân thật nghĩa, giảng giải vô biên thánh đế, tự tánh thanh tịnh, xiển dương tông chỉ, yếu nghĩa trong kinh Thắng Man. Để tăng tính thuyết phục trong lập luận, Ngài đă dẫn hơn mười mấy bộ kinh luận như Pháp Hoa, Duy Ma, Đại Trí Độ Luận v.v… và các điển tịch khác như Tượng Pháp Quyết Nghi Kinh, Xà Vương Sám Hối Kinh v.v… (Sở dĩ gọi các bộ này là điển tịch v́ chúng không nằm trong Đại Tạng Kinh), cũng như biện luận các nhận định của những bộ chú giải khác như Thắng Man Kinh Chú Sớ Yếu Nghĩa...