Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 69

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 137

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm năm mươi lăm, xem từ hàng thứ năm:

      “Ư chư chúng sanh, thị nhược tự kỷ” (đối với các chúng sanh, coi như chính ḿnh), hai câu này là kinh văn. Kế đó là lời chú giải: “Biểu đồng thể chi bi. Nhân sở bảo ái, mạc quá tự thân, linh thị chúng sanh như đồng tự kỷ, cố năng cứu độ quần sanh tâm bất tạm xả” (biểu thị ḷng đồng thể đại bi. Cái được người đời yêu mến nhất không ǵ bằng thân ḿnh. V́ xem chúng sanh như thân ḿnh, nên có thể chẳng tạm bỏ cái tâm cứu độ quần sanh). Chúng ta xem câu này, đây là tâm thái lợi tha của Bồ Tát, chúng ta phải nên học tập. Thấy hết thảy chúng sanh và chính ḿnh là cùng một Thể, cùng một tự tánh, cùng một Pháp Thân, cùng một thanh tịnh viên minh thể, sự thừa nhận này vô cùng trọng yếu. V́ sao? Đấy chính là “Phật tri Phật kiến” như kinh Pháp Hoa đă nói. Thật vậy, chẳng giả, tất cả hết thảy hiện tướng (h́nh tướng được biến hiện) trong khắp pháp giới hư không giới chẳng thật, giả trất, chỉ có sự thừa nhận này là thật. Nếu quư vị đă thật sự nhận biết, xin chúc mừng quư vị, quư vị đă minh tâm kiến tánh, đă thành Phật.

      Nay chúng ta tập khí phiền năo rất nặng, xác thực là biết chính ḿnh đang thuộc địa vị phàm phu, có giải ngộ, nhưng chẳng chứng ngộ, đă biết cách tu hành như thế nào, nhưng công phu chẳng đắc lực, v́ sao không đắc lực? Không buông phiền năo tập khí xuống được! Câu này nói dễ dàng, làm thật khó khăn! V́ chẳng buông tự tư tự lợi xuống được, chẳng buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống được, chẳng buông ḷng tham luyến ngũ dục, lục trần xuống được, chẳng buông tham, sân, si, mạn xuống được. Tu hành thời cổ  dễ hơn hiện thời, v́ sao? Căn cội luân lư, đạo đức, nhân quả đă được vun trồng sâu chắc từ bé, có thể nói: Người nào trong xă hội cũng đều là người tốt. V́ sao? Giáo dục thuở ấy là giáo dục vun bồi căn cội, ai nấy đều được học. Chuyện này chẳng dính dáng ǵ đến biết chữ hay không, mà cũng chẳng dính dáng đến chuyện có đi học hay không! Từ lúc được sanh ra, cha mẹ, người lớn trong nhà luôn biểu diễn trước mặt quư vị những điều ngay thẳng, chẳng có ǵ sai trái. V́ thế, từ nhỏ đă được học kỹ lưỡng. Xă hội thuần phác, chẳng có nhiều thứ dụ dỗ, mê hoặc như trong hiện tại, đều rất thật thà, đều khiến cho [mọi người] thành thật, bền vững, nên tu hành dễ dàng. Trong xă hội hiện thời, tu hành hết sức khó khăn, trong tâm có tham, sân, si, mạn, nghi. Đây là những cội rễ phiền năo tập khí nghiêm trọng hơn bất cứ những điều nào khác, Phật pháp sánh ví những phiền năo ấy như năm cái rễ của địa ngục. Tham, sân, si, mạn, nghi là năm cội rễ của địa ngục. Trong tập khí th́ có oán, hận, năo, nộ, phiền. Bên ngoài th́ có tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ dụ dỗ, mê hoặc. Nói gộp lại, sẽ là “ma chưởng” (bàn tay ma), quư vị có thể nhảy ra khỏi [bàn tay ma ấy] hay chăng? Nếu chúng ta chẳng học tập kinh giáo hằng ngày, thời thời khắc khắc đề cao cảnh giác, một chút công phu bé tẹo ngần ấy c̣n chẳng thể giữ được, nói chi đến tăng tấn? V́ thế, nhận biết đồng thể đại bi vô cùng quan trọng! Chúng sanh và ta có cùng một Thể. Biết là một Thể, điều này được gọi là luân lư, tức là luân lư trong nhà Phật. Đạo gia cũng nói: “Trời đất và ta cùng một căn, vạn vật và ta cùng một Thể”, đó là luân lư của Đạo gia.

      Kế đó, [cụ Hoàng] nói: “Nhân sở bảo ái, mạc quá tự thân”, [nghĩa là cái được] con người yêu mến nhất là thân thể của chính ḿnh. Nay thấy hết thảy chúng sanh và chính ḿnh là một Thể, chẳng khác ǵ nhau! Thân thể chúng ta chẳng khỏe mạnh, không thoải mái, chắc chắn là thời thời khắc khắc luôn nghĩ tới, thời thời khắc khắc mong được chữa lành, khôi phục sức khỏe nhanh hơn một chút. Trong xă hội hiện thời, bao nhiêu người đánh mất sức khỏe, nhất là sức khỏe nơi phương diện tinh thần. Đánh mất như thế nào? Do mê hoặc tự tánh bèn đánh mất. Phật, Bồ Tát từ bi, đến giúp đỡ chúng ta, giúp chúng ta trị lành, dùng phương pháp ǵ? Giáo học, phá mê khai ngộ, đó là cứu độ hết thảy chúng sanh. Đă giác ngộ th́ đều là Phật, đều là Bồ Tát, hễ mê hoặc th́ là chúng sanh. Chúng sanh khó thành Phật dường ấy, vấn đề ở chỗ chẳng thể triệt để buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống, khởi tâm động niệm chẳng ĺa khỏi tiếng tăm, lợi dưỡng. Có thể nhạt hơn người khác một chút th́ được, nhưng mức độ đậm nhạt hết sức bất ổn định! Nh́n bề ngoài có vẻ khá nhạt nhẽo, nhưng hễ danh lợi vừa hiện tiền, ngay lập tức nẩy sanh biến hóa, chẳng thể giữ được! Do nguyên nhân nào? Nay chúng tôi kể như đă hiểu: Do chẳng có căn cội! Chúng ta tu hành mà chẳng có căn cội, nên mới có hiện tượng này. Làm sao để có thể giống như bị vua Ca Lợi cắt chặt thân thể mà vẫn chẳng động tâm th́ mới có thể thành tựu. Chẳng có mảy may hoài nghi, chẳng có mảy may ích kỷ, chẳng có mảy may ganh tỵ nào! V́ sao? Hết thảy chúng sanh và ta là một, không hai, người khác là chính ḿnh. Người khác chiếm được một chút tiện nghi của ta, ta chẳng oán hận, mà mang ḷng hoan hỷ. Đó là Bồ Tát, chẳng phải là phàm nhân. Người khác hủy báng, tổn hại, hăm hại ta, ta vẫn hoan hỷ, chẳng có mảy may oán hận, v́ sao? [Những người ấy đến giúp ta] nâng cao [cảnh giới] của chính ḿnh, đến khảo nghiệm chính ḿnh. Đúng là một Thể, ta mong giúp họ tăng cao cảnh giới, họ cũng thường tăng cao cảnh giới của ta, bất luận là hữu ư hay vô ư. Có khi làm quá lố, nhưng nếu quư vị là người tu hành thật sự, sẽ chẳng cảm thấy kẻ đó quá lố, mà c̣n cảm thấy kẻ ấy làm chưa đủ. Do đó, trong cảnh giới, chân, vọng, tà, chánh, đúng, sai, thiện, ác, thảy đều chẳng tồn tại, một bầu thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, chân tâm hoàn toàn hiển lộ. Nếu vẫn là chưa buông tự tư tự lợi xuống, chưa buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống, cái này nh́n cũng không quen, cái kia nh́n cũng chẳng quen, vậy là tu uổng công mất rồi, mảy may tăng trưởng hay tiến bộ đều chẳng có! Trên thế gian, tối đa là quư vị tăng trưởng một chút học vấn do hỏi han, ghi nhớ, nhưng sau đó, phải tḥng thêm một câu “chẳng đáng làm thầy người khác”. Quư vị học được một chút kiến thức Phật pháp thông thường bề ngoài, chẳng học được Phật pháp thật sự! Lục Tổ Huệ Năng đại sư đă nói rất hay: “Phật pháp thật sự chẳng liên quan đến văn tự, ngôn thuyết”. Nói theo cách hiện thời, [học Phật] hoàn toàn là chuyển biến tâm thái, quay tâm thái trở về. Tổ tiên đă nói rất hay: “Con người tánh vốn lành”, trở về cái Bổn Thiện là tu hành thật sự, công phu ấy được gọi là thật sự đắc lực.

      Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật có nói: Hết thảy chúng sanh đều do tâm hiện, thức biến. Tâm là tự tánh của chính ḿnh. Thức là vọng tâm của chính ḿnh. Chân và vọng cùng một Thể. Những khai thị ấy trong giáo pháp Đại Thừa, câu nào cũng đều là nói tới Thật Tướng của các pháp. Chúng ta nhận biết từ chỗ này th́ mới coi như chánh xác. Thực hiện ở nơi đâu? Thực hiện bằng chẳng hề tạm bỏ tâm cứu độ chúng sanh. Quư vị đă thật sự giác ngộ, chắc chắn là như vậy, niệm niệm thấy những chúng sanh khổ nạn, bèn chẳng nghĩ đến chính ḿnh, toàn tâm toàn lực giúp đỡ những chúng sanh ấy quay đầu, giác ngộ. Dùng phương pháp ǵ để giúp họ quay đầu? Thực hiện từ chính ḿnh. Quư vị dạy người khác, dạy người khác trong hiện thời th́ phải sử dụng thân giáo. Thuở đức Phật tại thế, Ngài giáo dục người ta bằng thân giáo, tức là nêu gương cho quư vị thấy. Con người hiện thời suy nghĩ sai lầm, khởi tâm động niệm luôn luôn là tổn người, lợi ḿnh, chúng ta nêu gương, khởi tâm động niệm đều là tổn ḿnh, lợi người, dần dần mới có thể khiến cho họ giác ngộ, khiến cho họ quay đầu. Chứ nếu quư vị chẳng làm được [những ǵ ḿnh đă nói] th́ c̣n làm sao được nữa! Xă hội hiện thời là cạnh tranh, chúng ta phải nêu gương lễ nhượng. Không chỉ là khiêm nhượng, mà c̣n là lễ nhượng, chỗ nào cũng đều nhường nhịn. Chúng sanh niệm niệm đều mong cầu có được, chúng ta niệm niệm mong bố thí, bỏ ra. Chúng sanh chẳng biết vâng giữ luật lệ, cậy vào thông minh, tài trí của chính ḿnh để lách theo lỗ hổng pháp luật, mong mỏi chiếm đôi chút tiện nghi. Đó là cái tâm trộm cắp! Chúng ta vâng giữ luật lệ nghiêm ngặt, nêu gương cho họ thấy. Họ sợ bị thua thiệt, chúng ta thích chịu thiệt tḥi, có thể hứng chịu thiệt tḥi. Đó là việc làm của Bồ Tát, việc làm của Phật. Việc làm của Phật, Bồ Tát luôn là tốt nhất, hoàn toàn tương ứng với Tánh Đức, chẳng tương ứng với chuyện nhân t́nh ấm lạnh của người thế gian, mà hoàn toàn trái nghịch, v́ sao? Người hiện thời đă ĺa khỏi tiêu chuẩn đức hạnh quá ư là xa! Đối với thời cổ mà nói, tuy có lầm lỗi, vẫn chưa đến nỗi hoàn toàn lệch lạc, kể như vẫn chẳng cách xa tiêu chuẩn cho mấy. Hiện thời [cách biệt] quá xa, nay gần như chẳng thấy tiêu chuẩn đâu nữa. Hiện tượng này đáng sợ lắm; do đó, tai nạn dấy lên. Chúng ta có thể tự ḿnh làm, không chỉ nâng cao [cảnh giới] chính ḿnh, mà c̣n thật sự giúp đỡ đại chúng, cứu độ quần sanh, và cũng là giúp đỡ quả địa cầu này.

      Các nhà khoa học cận đại cho biết: Vật chất dẫu nhỏ đến mấy, [ngay như] các hạt căn bản đều có thấy, nghe, hay, biết, đều biết ư nghĩ của chúng ta, giống như trong thí nghiệm với nước của ông Giang Bổn Thắng [đă chứng tỏ điều ấy]; nhưng chúng ta đă nhận được tin tức này rất sớm! Trong kinh Đại Thừa đă nói rất nhiều, điều khó có là nó đă được khoa học chứng minh. Mấy năm trước, tiến sĩ Giang Bổn Thắng đă dùng nước để chứng minh và đă chứng minh được! Các nhà khoa học hiện thời cho biết: Mỗi hạt cơ bản đều có thấy, nghe, hay, biết, khiến cho chúng ta thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch Ngũ Uẩn tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức như kinh Bát Nhă đă nói. Không riêng ǵ hạt cơ bản nhỏ nhoi ngần ấy có trọn đủ Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Nó có sắc tướng, đó là vật chất, nó lại có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, [đó là tinh thần, nên nó trọn đủ] Ngũ Uẩn. Hiện thời, các nhà Lượng Tử Lực Học cho biết: Tiểu quang tử tuy nhỏ hơn hạt cơ bản nhưng cũng trọn đủ Ngũ Uẩn. Trí huệ của Quán Thế Âm Bồ Tát, Bát Nhă vốn trọn đủ trong tự tánh, “chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không”. Tâm Kinh đă dạy: “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Sắc chính là Không, Không chính là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng lại như thế”. Nếu quư vị thật sự hiểu chân tướng sự thật này, c̣n có ǵ chẳng thể buông xuống? Thứ ǵ cũng đều buông xuống được. V́ sao buông xuống? Năm xưa, khi tôi ở Mỹ, đọc kinh Đại Bát Nhă. Kinh ấy có phân lượng rất lớn, tôi nhớ bản đóng b́a cứng gồm hai mươi bốn quyển. Tôi xem xong một lượt, bèn viết mười hai chữ để làm báo cáo tâm đắc: “Hết thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể được”. Trong tâm quư vị c̣n có ǵ chẳng thể buông xuống được? C̣n có ǵ vướng mắc? C̣n có ǵ ưu lự? Quét sạch trơn! Đó là Thật Tướng của các pháp, là pháp được cùng chứng đắc bởi hết thảy chư Phật và Pháp Thân Bồ Tát, tâm khai ư giải.

       Bát Nhă Tâm Kinh c̣n nói hai trăm sáu mươi chữ, tôi dùng mười hai chữ để tổng kết. Thế nhưng phiền năo tập khí đúng là nặng nề, chẳng giả! Tôi chẳng đạt được sự đại tự tại như trong kinh Phật đă dạy, đó là ǵ? Phiền năo, tập khí nhiễu loạn, tập khí khó đoạn. Nguyên nhân khiến khó đoạn, nguyên nhân khiến chẳng đoạn được là ǵ? Đối với chuyện này, chúng tôi thừa nhận tŕnh độ vẫn chưa đủ! Năm xưa, Chương Gia đại sư đă dạy tôi: “Tu học Phật pháp là biết khó, hành dễ”. Tôi tin tưởng câu ấy. Quư vị thấy Huệ Năng đại sư ở trong phương trượng thất của ḥa thượng Ngũ Tổ Nhẫn, trong thời gian ngắn ngủi như vậy, chúng tôi ước tính tối đa là hai tiếng đồng hồ, Ngũ Tổ giảng cho Ngài nghe đại ư kinh Kim Cang, giảng đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Ngài liền khai ngộ. Khai ngộ là ǵ? Ngài đă buông xuống. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều cùng buông xuống, trong Phật pháp gọi điều này là “đốn xả, đốn đoạn, đốn ngộ, đốn chứng”. Khi ấy, Huệ Năng đại sư hai mươi bốn tuổi, chúng ta chẳng thể không bội phục, Ngài đă thành Phật! Thích Ca Mâu Ni Phật v́ chúng ta thị hiện dưới cội Bồ Đề cũng là t́nh h́nh như vậy. Đức Phật thị hiện vào lúc ba mươi tuổi. V́ sao chúng ta chẳng thể bỏ? Do chẳng thấu suốt. Chẳng thấu suốt kinh giáo. Chẳng thấu suốt là v́ chúng ta huân tập chẳng đủ!

      Đối với sự huân tập, nh́n từ gương cổ thánh tiên hiền, [ta thấy] thâm nhập một môn là tuyệt đối chánh xác. Các Ngài chẳng có tạp niệm. Hễ lan man quá nhiều thứ, chắc chắn bị phân tâm, chẳng thể tập trung ư chí, chẳng thể tập trung tinh thần, hiệu quả bị giảm bớt rất lớn! Tuy nhiên, nh́n theo pháp thế gian, học rộng nghe nhiều th́ người ấy có kiến thức thông thường hết sức phong phú, sách vở thế gian và xuất thế gian đều đọc qua, chẳng có ǵ không biết, dường như là khá lắm, vấn đề xuất hiện ở chỗ nào? Người ấy chẳng kiến tánh, chẳng đắc tam-muội. Nếu đắc tam-muội sẽ khai ngộ, há c̣n phải học ư? Chẳng cần phải học! Hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đă thông suốt toàn bộ. Giống như Long Thọ Bồ Tát, trong thời gian ba tháng, thông suốt toàn bộ hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm. Đấy chính là sự giáo dục chân chánh của đức Phật. Sự giáo dục của đức Phật là dạy quư vị triệt để quán thông, thông đến tự tánh, khiến cho quư vị thành Phật, chẳng phải là khiến cho quư vị học rộng nghe nhiều. Chẳng phải là làm chuyện ấy, mà là dạy quư vị thâm nhập tam-muội, đại triệt đại ngộ, quư vị mới có năng lực giống như Phật “tâm cứu độ quần sanh chẳng hề tạm bỏ”. Quư vị đă thông đạt vô lượng pháp môn, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng có ǵ không thông đạt. Cầu điều này! Hoàn toàn bảo quư vị hăy quay về nhập Thường Tịch Quang, thật sự “quay đầu chính là bờ”. V́ thế, thái độ này chính là khẳng định “chúng sanh và quư vị là một Thể”. Hiện thời, chúng sanh trên địa cầu gặp lắm tai nạn ngần ấy, bản thân địa cầu có tai nạn, [những chuyện này] đều là bất b́nh thường, quư vị phải có tâm cứu độ và hành vi cứu độ tích cực hơn bất cứ ai khác!

      Tiếp đó, [sách Chú Giải] nêu tỷ dụ, [tỷ dụ ấy] được nói trong kinh Niết Bàn: “Như Niết Bàn Kinh kệ viết: Nhất thiết chúng sanh thọ dị khổ, tất thị Như Lai nhất nhân khổ” (Kinh Niết Bàn có bài kệ rằng: “Hết thảy chúng sanh hứng chịu các nỗi khổ khác nhau th́ cũng đều như chính bản thân Như Lai chịu khổ”). Mê, ngộ, thiện, ác, họa, phước, chúng sanh và Phật cùng một Thể. Do đó, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể giống Như Lai, thấy người khác có lầm lỗi tức là chính ḿnh có lầm lỗi hay không? V́ sao? Ta chẳng nêu gương tốt để ảnh hưởng đến người ấy, ta làm chưa đủ viên măn. Cũng chính là như cổ đại đức đă nói: “Điều ǵ làm chẳng được, bèn quay lại xét ḿnh”, trọn chẳng có ư niệm chỉ trích lỗi lầm của kẻ khác, luôn [tâm niệm] chính ḿnh chưa làm tốt đẹp đủ mức, nên chẳng thể thật sự cảm hóa kẻ khác, khích lệ chính ḿnh hăy thêm gắng công ra sức tu tập. Đối với hai câu kinh Niết Bàn ấy, [xét ra] cổ thánh tiên hiền như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang đều có tâm thái ấy, thấy dân chúng khổ sở, thấy nhân dân khổ sở, bèn thời thời khắc khắc tự trách, chẳng trách móc người khác. Quư vị nói xem họ chẳng phải là hóa thân của Phật, Bồ Tát ư? Thuở đó, Phật pháp chưa truyền đến Trung Hoa, có thể là Thích Ca Mâu Ni Phật chưa xuất thế. Thích Ca Mâu Ni Phật sanh nhằm năm thứ hai mươi bốn đời Châu Chiêu Vương, gần như là cách thời Nghiêu, Thuấn, Đại Vũ, Văn Vương một ngàn năm. Những điều các Ngài nói, những hành vi biểu hiện đều là “hết thảy chúng sanh chịu những nỗi khổ khác biệt, đều là một ḿnh Như Lai chịu khổ”.

      “Cố phổ nguyện chửng tế phụ hà, giai độ bỉ ngạn” (V́ vậy, phổ nguyện cứu vớt, gánh vác cho đều vượt lên bờ kia”). V́ sao phải làm như vậy? Trong kinh Phật đă có một câu: “Pháp nhĩ như thị”, [nghĩa là] hết thảy các pháp vốn là như vậy, chẳng có lư do, chẳng có suy tưởng, mong cầu, một Thể mà! “Chửng giả, cứu trợ dă. Tế giả, độ dă, thành dă, ích dă” (Chửng () là cứu giúp, Tế () là độ, làm cho hoàn thành, tạo lợi ích). Có nhiều ư nghĩa như vậy, cứu vớt chúng sanh, lợi ích chúng sanh, hướng dẫn chúng sanh ĺa khổ được vui. “Cố chửng tế tức thị cứu độ chi nghĩa. Phụ giả, đảm hà dă. Đại Pháp Cự Đà La Ni Kinh Phật ngôn: Bồ Tát đảm giả, thệ nguyện hà phụ nhất thiết chúng sanh xuất ly thế gian. Thí như trưởng giả, gia nội phong nhiêu, đa chư trân bảo, duy hữu nhất tử, dĩ ái niệm cố, tài bảo, lạc cụ tất cấp dữ chi, vô hữu b́ quyện. Bồ Tát diệc phục như thị, nhất thiết lạc cụ tận giai dữ chi, năi chí linh nhập Vô Dư Niết Bàn, thị cố danh vi hà phụ trọng đảm” (Do đó, “chửng tế” có nghĩa là cứu độ. Phụ () là gánh vác. Trong kinh Đại Pháp Cự Đà La Ni[1], đức Phật dạy: “Trách nhiệm của Bồ Tát là thệ nguyện gánh vác hết thảy chúng sanh xuất ly thế gian. Ví như trưởng giả trong nhà giàu có, dư dật, nhiều của cải quư báu, chỉ có một con. V́ thương yêu con, nên của cải, vật yêu thích đều trao hết cho con, chẳng hề mệt nhọc. Bồ Tát cũng lại giống như vậy: Hết thảy vật yêu thích đều trao hết cả cho, cho đến khiến cho chúng sanh nhập Vô Dư Niết Bàn. V́ vậy, gọi là gánh vác gánh nặng”). Trong phần kinh văn này có nói đến một câu chuyện nhỏ, nhằm khải thị người thật sự học Phật hành Bồ Tát đạo. Từ chỗ này, chúng ta thấy được nguyện hạnh của Bồ Tát. Phát nguyện dễ dàng, nhưng thực hiện nguyện ấy chẳng đơn giản. Thực hiện là thật, chẳng giả. Cha mẹ yêu thương con cái, vào thời cổ ta thấy chuyện như vậy rất nhiều, nhưng trong xă hội hiện thời chẳng thấy. V́ nguyên nhân ǵ? Chẳng có giáo dục luân lư. Chẳng có giáo dục luân lư th́ cha con chẳng có t́nh thân. Cha mẹ chẳng yêu thương con cái, làm sao con cái dấy lên ḷng yêu thương cha mẹ cho được? V́ sao chẳng yêu thương? Từ nhỏ đă chẳng vun bồi tốt đẹp đức hạnh cho con, đó là chẳng yêu thương! Chăm sóc áo, cơm, những tṛ vui chơi cho con, súc sanh cũng có thể làm được những chuyện ấy! Quư vị thấy người hiện thời, kẻ giàu có nuôi thú vật cưng, quả thật có những trường hợp chăm bẵm những con vật cưng c̣n hơn cả con cái của chính ḿnh, chẳng đối xử tốt đẹp và quan tâm con cái bằng những con vật cưng!

      Xă hội hiện tại thật sự nẩy sanh những vấn đề mà cổ nhân chẳng thể nào tưởng tượng được! Trong xă hội hiện tại, đâu đâu cũng là như vậy, khắp mọi nơi đều trông thấy, mà cũng chẳng biết giáo dục là ǵ! Cái nghĩa gốc của chữ Giáo () trong tiếng Hán là “trưởng thiện, cứu thất” (tăng trưởng điều thiện, bổ cứu những khuyết điểm), hiện thời chẳng có ai nói tới. Giáo là ǵ, mấy ai có thể hiểu được? “Thất” () là lầm lỗi. Bổ cứu những lầm lỗi như thế nào? Tăng trưởng thiện tâm, thiện hạnh của quư vị ra sao? Đó là giáo dục; trên hành, dưới bắt chước theo. Phương thức thực hiện trọng yếu nhất vẫn là thân giáo (giáo dục con người bằng hành động gương mẫu). Một đứa trẻ từ bé đă được quư vị nêu gương tốt, nó trông thấy liền hiểu, học theo. Điều này thật sự chẳng liên quan đến chuyện biết chữ, chẳng liên quan đến học hành. Trẻ thơ từ lúc lọt ḷng cho đến khi ba tuổi, c̣n chưa có năng lực học chữ, mà cũng chẳng có năng lực biết chữ, đó chính là lúc vun bồi, đặt vững cơ sở giáo dục, luân lư, đạo đức, nhân quả. Một trăm năm trước, tức là một thế kỷ trước, người Hoa nhà nào cũng đều biết chuyện này. Sau khi nhà Măn Thanh vong quốc, ảnh hưởng của nền giáo dục truyền thống đại khái c̣n kéo dài hai mươi lăm năm. Nó được ǵn giữ đầy đủ nhất ở nông thôn. Tại nông thôn, giữ được khoảng hai mươi lăm năm, nhưng tại đô thị [giữ được nền giáo dục truyền thống] đại khái ít hơn mười năm [so với nông thôn], cũng có nghĩa là: Thông thường, tại đô thị, trong ṿng mười lăm năm, vẫn c̣n có thể thấy [ảnh hưởng của nền giáo dục truyền thống]. Sau mười lăm ấy, [ảnh hưởng đó] dần dần nhạt mỏng đi. Kể từ thời chiến tranh giữa Trung Hoa và Nhật Bản, sau tám năm kháng chiến, tại nông thôn chẳng c̣n [ảnh hưởng ấy nữa]. Do đó, nay chúng ta hiểu biết tầm trọng yếu [của nền giáo dục truyền thống], nhưng khôi phục nó rất ư là khó! Khôi phục bằng cách nào? Nền giáo dục truyền thống chẳng thể khôi phục th́ xă hội vĩnh viễn chẳng thể nào an định, đây là đạo lư nhất định. V́ thế, cổ nhân hiểu chuyện này, nhưng người hiện thời rất thờ ơ, mà cũng chẳng tin tưởng!

      Trong kinh giáo, Phật, Bồ Tát đă dùng tỷ dụ để nói rơ, Bồ Tát đối với hết thảy chúng sanh đă dốc trọn công sức, chẳng có mảy may ư niệm đ̣i hỏi, mong mỏi chúng sanh báo đáp các Ngài chút ǵ, chẳng có ư niệm ấy. Người hiện thời có thể làm chuyện này hay không? Người nhất tâm mong thành Phật sẽ làm được, nhưng kẻ c̣n tham luyến thế gian này sẽ quyết định chẳng làm được. Chỉ có người nhất tâm mong làm Phật là có thể làm được. V́ sao? Người ấy biết hết thảy các pháp đều là Không, ngay cả thân thể của chính ḿnh cũng là rỗng không, vật ngoài thân chẳng có ǵ là của chính ḿnh. Người ấy đă hiểu chân tướng sự thật này, nên dần dần bèn phóng khoáng, sẽ có thể làm được. Nếu chẳng thật sự liễu giải, [tức là] chẳng liễu giải thấu triệt chân tướng sự thật này, sẽ rất khó! “Rất khó” cũng có nghĩa là vượt thoát lục đạo luân hồi khó lắm! Chẳng thể buông xuống, sẽ không thoát khỏi luân hồi. Bồ Tát giúp đỡ chúng sanh, mục tiêu thật sự là ǵ? Khiến cho họ nhập Vô Dư Niết Bàn. Vô Dư Niết Bàn là địa vị ǵ? Dư () là tập khí. Tập khí vô thỉ vô minh đều đoạn hết sạch th́ gọi là Vô Dư Niết Bàn, thuộc địa vị Diệu Giác, trở về Thường Tịch Quang viên măn. V́ thế, điều này được gọi là “hà phụ trọng đảm” (荷負重擔: gánh vác gánh nặng). Bốn chữ ấy danh phù hợp thực, giúp đỡ bất cứ chúng sanh nào đều phải giúp họ trở về Đại Bát Niết Bàn th́ nguyện tâm cứu độ của Bồ Tát mới xem như viên măn.

      “Thượng dẫn kinh văn, thâm hiển ‘chửng tế phụ hà’ chi nghĩa. Độ giả, đáo dă. Bỉ ngạn giả, Niết Bàn dă. Đại Luận thập nhị viết” (Đoạn kinh vừa dẫn trên đă hiển thị sâu sắc ư nghĩa “cứu vớt, gánh vác”. “Độ” () là đến nơi. “Bỉ ngạn” (彼岸: bờ kia) là Niết Bàn. Đại Luận, quyển mười hai đă nói), Đại Luận là Đại Trí Độ Luận. “Nhược năng trực tiến bất thoái, thành biện Phật đạo, danh đáo bỉ ngạn, biểu đại sĩ phổ độ, tất linh nhất thiết chúng sanh chứng nhập Vô Dư Niết Bàn nhi hậu dĩ dă” (“Nếu có thể thẳng tiến chẳng lui, hoàn thành Phật đạo th́ gọi là đáo bỉ ngạn (đạt đến bờ kia)”, ư nói: Đại Sĩ phổ độ, làm cho hết thảy chúng sanh chứng nhập Vô Dư Niết Bàn rồi chính ḿnh mới chứng Niết Bàn). Trong thế gian, Bồ Tát chẳng làm chuyện ǵ khác, mà làm chuyện như vậy đó, chẳng mệt, chẳng ngán, vĩnh viễn chẳng ngơi nghỉ!

      Chúng ta lại xem mấy câu kinh văn kế đó: “Tất hoạch chư Phật vô lượng công đức, trí huệ thánh minh bất khả tư nghị” (Đều đạt được vô lượng công đức của chư Phật, trí huệ thánh minh chẳng thể nghĩ bàn). [Hai câu ấy] được chú giải như sau: “Dĩ thượng nhị cú, biểu chư đại sĩ cụ túc phước trí nhị nghiêm” (hai câu trên đây biểu thị các vị đại sĩ phước trí nhị nghiêm), “nghiêm” () là trang nghiêm (莊嚴). [Phước trí nhị nghiêm là] phước trang nghiêm và huệ trang nghiêm. “Vị tề quả vị, năi tùng quả hướng nhân chi đại Bồ Tát, hàm đắc Như Lai chi phước đức trang nghiêm. Trí huệ thánh minh bất khả tư nghị, minh đại sĩ hàm đắc Như Lai chi trí huệ trang nghiêm” (Là bậc Bồ Tát có địa vị ngang với quả vị, nhưng từ quả hướng nhân, đều đă đắc phước đức trang nghiêm của Như Lai. “Trí huệ thánh minh chẳng thể nghĩ bàn” là nói các Đại Sĩ đều đă chứng đắc trí huệ trang nghiêm của Như Lai), chúng ta xem đoạn này. Đây là ǵ? Thành tựu người khác vốn là thành tựu chính ḿnh. Chính ḿnh đă thành Phật, sau khi đă thành Phật, phước huệ sẽ đạt tới viên măn rốt ráo, quư vị phải phổ độ chúng sanh. Nếu chẳng thể phổ độ chúng sanh, phước huệ của quư vị sẽ chẳng thể viên măn. Phước huệ viên măn là chuyện tự nhiên, không nhất định do tâm ta mong tưởng; quả thật là trong cảnh giới, Bồ Tát chẳng khởi tâm, không động niệm. Chúng ta biết, đối với bốn mươi mốt phẩm vô minh, tức là tập khí vô minh, Ngài chưa đoạn bốn mươi mốt phẩm tập khí vô minh, nhưng Ngài có mong đoạn hay không? Ngài cũng chẳng mong! Nếu Ngài nghĩ tưởng, mong muốn, liền bị đọa lạc, v́ Ngài lại khởi tâm động niệm. Pháp Thân Bồ Tát chẳng khởi tâm, không động niệm, lẽ đâu Ngài mong đoạn [tập khí vô minh], hay là mong muốn, hy vọng phước huệ viên măn? Chẳng có ư niệm ấy, thế mà bốn mươi mốt phẩm vô minh tự nhiên đoạn sạch viên măn. Do đó, sau khi đă đại triệt đại ngộ, sau khi minh tâm kiến tánh, các Ngài trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, chúng ta thường gọi cơi ấy là Nhất Chân pháp giới. Trụ bao lâu? Ba đại A-tăng-kỳ kiếp. V́ sao phải trụ lâu như thế? Phải qua thời gian dài như thế th́ mới chẳng c̣n tập khí. Ngài trụ trong cơi Thật Báo lâu như thế để làm ǵ? Tánh Đức tự nhiên lưu lộ, mười phương thế giới, khắp pháp giới hư không giới, bất cứ chỗ nào chúng sanh có cảm, Ngài bèn có ứng. Chúng sanh cảm th́ có hiển cảm (顯感: cảm rơ rệt) và có minh cảm (cảm ngấm ngầm). Minh cảm (冥感) là chúng sanh có cầu Phật, Bồ Tát, nhưng chính họ chẳng biết, v́ ư niệm rất vi tế, chính họ chẳng cảm nhận được, nhưng Phật, Bồ Tát nhận biết, nhận được tin tức ấy. Hễ nhận được, các Ngài liền đến giúp đỡ quư vị, v́ sao? Quư vị có duyên với các Ngài. Do đó, phải biết: Nay chúng ta kết duyên với hết thảy mọi người, kết duyên với hết thảy chúng sanh, thiện duyên cũng thế, mà ác duyên cũng vậy, duyên b́nh đẳng, bất luận thiện hay ác, chỉ cần là có duyên, khi thành Phật, họ nhất định đến độ quư vị. Quư vị có duyên với họ, nên quư vị vừa phát ra tin tức, họ sẽ nhận được ngay lập tức!

Chưa đoạn tập khí phiền năo, sẽ có thiện duyên và có ác duyên. Nếu đoạn sạch tập khí phiền năo, thiện duyên và ác duyên thảy đều biến thành pháp duyên. Trong tự tánh, chẳng thể t́m được thiện hay ác. Không chỉ là chẳng có thiện, ác, mà chân, vọng cũng chẳng có, tà, chánh cũng chẳng có, đó là nói theo Nhất Chân pháp giới. Trong mười pháp giới th́ có, trong mười pháp giới có những thứ thật, giả, tà, chánh, thiện, ác rất rơ ràng, nhưng cơi Thật Báo Trang Nghiêm chẳng có chuyện ấy, chúng ta phải biết điều này. Đấy là nói trí huệ viên măn trong tự tánh thấu lộ, mà cũng là như đức Phật đă nói trong kinh Hoa Nghiêm: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Như Lai là tự tánh, trí huệ, đức năng, và tướng hảo trong tự tánh chẳng có mảy may chướng ngại nào, thảy đều hiển thị. Hiển ở nơi đâu? Hiển lộ khi người ấy ứng [theo sự cảm] của chúng sanh. Chúng sanh có cảm, người ấy bèn có ứng, nên dùng thân ǵ để đắc độ, bèn hiện thân ấy, nên dùng pháp môn ǵ để giáo hóa, bèn dùng pháp môn ấy, quyết định chẳng có suy xét. Trong khoảng thời gian ấy, chúng ta giả thiết [khoảng thời gian ấy] là ba đại A-tăng-kỳ kiếp như kinh đă nói, vị ấy trọn chẳng khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm c̣n chẳng có, há có phân biệt, chấp trước? Toàn là tự tánh, tự nhiên. Chúng ta dùng danh từ ǵ để h́nh dung nó? Tự nhiên vận hành, chẳng do ai làm, chẳng có bất cứ sức mạnh nào thao túng, chẳng có! Hoàn toàn là tự nhiên, nên chúng ta chỉ có thể nói là Tánh Đức tự nhiên lưu lộ. Trong kinh Phật có một danh từ rất đơn giản [để diễn tả điều này]: “Pháp nhĩ như thị”. Từ ngữ ấy rất hay, pháp vốn là như vậy.

      Điều này biểu thị các vị Pháp Thân đại sĩ trọn đủ phước huệ nhị nghiêm. Chúng ta ca ngợi Phật, quư vị thấy khi quy y Phật, trong lời thề, chúng ta đọc: “Quy y Phật, Nhị Túc Tôn”. Ai nấy đều đă đọc cả rồi. Nhị Túc là ǵ? Là huệ và phước, tức phước trí, chính là “phước trí nhị nghiêm” ở chỗ này. Đạt đến quả vị rốt ráo, phước viên măn, trí viên măn, th́ gọi là Lưỡng Túc Tôn, chẳng khiếm khuyết mảy may. Đẳng Giác Bồ Tát c̣n có chút khiếm khuyết, vẫn chưa đạt tới viên măn, nhưng địa vị Diệu Giác đă viên măn. Địa vị ngang với Phật quả th́ địa vị ấy đă đạt đến Diệu Giác, tức là quả vị Phật rốt ráo. Những vị ấy tuyệt diệu, chính là hàng đại Bồ Tát từ quả hướng đến nhân, các Ngài chẳng ứng hóa từ cơi Thật Báo, mà từ đâu ứng hóa? Các Ngài ứng hóa từ cơi Thường Tịch Quang. Ư nghĩa này hay lắm. Nếu không, rất nhiều người hoài nghi: Trở về Thường Tịch Quang bèn chẳng khởi tác dụng. Cơi Thường Tịch Quang đă chẳng phải là tinh thần, mà cũng chẳng phải là vật chất, há chẳng phải là không có tác dụng ǵ hay sao? Được rồi! Tôi nói cho quư vị biết: Trong Thường Tịch Quang có ứng. Thường Tịch Quang là Nhị Túc Tôn viên măn rốt ráo, tức Diệu Giác! Theo định nghĩa trong Phật pháp, chữ Diệu () thường được giảng là “chẳng phải có, chẳng phải không”. Quư vị chẳng thể nói nó là có, mà cũng chẳng thể nói là “chẳng có”. Đó là Thường Tịch Quang. Quư vị thấy khi Huệ Năng đại sư kiến tánh đă nói năm câu chẳng phải có, chẳng phải không: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh”, tự tánh chưa hề bị ô nhiễm. Chỉ cần có hiện tướng, bất luận là hiện tượng vật chất hay hiện tượng tinh thần, đều có thể bị ô nhiễm. Nó chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, nên nó chưa hề có hiện tượng ô nhiễm, vốn tự thanh tịnh. Câu thứ hai là “vốn chẳng sanh diệt”, đây là Đại Bát Niết Bàn, chẳng có sanh diệt. Trong tôn giáo của ngoại quốc có nói “sống đời đời”, nhưng điều này c̣n cao hơn chuyện sống đời đời v́ chẳng có sanh diệt. Câu thứ ba là “vốn tự trọn đủ”, nó chẳng khiếm khuyết mảy may. Bất luận là trí huệ, đức năng, hay tướng hảo, hết thảy đều hoàn toàn trọn đủ. [Câu thứ tư là] “vốn chẳng dao động”, nói rơ: Vọng tâm của chúng sanh trong mười pháp giới đều là động. Khoa học hiện đại nói là hiện tượng dao động. Hiện tượng dao động th́ [từ địa ngục giới] cho đến Phật pháp giới trong mười pháp giới đều có hiện tượng này, nhưng trong cơi Thật Báo chẳng có hiện tượng này. Câu cuối cùng là “có thể sanh ra vạn pháp”. Một niệm bất giác sẽ có thể hiện ra A Lại Da. A Lại Da có thể biến. Tự tánh có thể sanh, có thể hiện, c̣n A Lại Da có thể biến. Tự tánh là chân tâm của chính ḿnh, A Lại Da là vọng tâm của chính ḿnh. Vọng sanh từ chân, điều này đă được các khoa học gia hiện thời phát hiện. Hiện tượng tinh thần và hiện tượng vật chất do đâu mà có? Trong Không sanh ra Có, được gọi là “vô trung sanh hữu”. Vô là ǵ? Vô là tự tánh, v́ tự tánh thật sự chẳng phải là vật chất, chẳng phải là tinh thần, nên lục căn của quư vị chẳng thể duyên được! Vật chất th́ năm căn trước có thể duyên đến, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân có thể duyên đến, tiếp xúc được [vật chất]. Tinh thần th́ ư căn có thể tiếp xúc được. Nhưng nó (tự tánh) chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, nên Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức của chúng ta đều không duyên được. V́ vậy, nói là “vô trung sanh hữu”. Các khoa học gia đă có thể phát hiện cảnh giới này, điều này rất khó có! Chứng tỏ lời Phật nói chẳng giả, ba ngàn năm sau các khoa học gia đă giúp Ngài chứng thực; nhưng các khoa học gia chẳng thể kiến tánh, nguyên nhân v́ sao? Do họ chẳng buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống! Hễ buông xuống liền kiến tánh. Sau khi đă buông xuống, trí huệ và đức tướng bèn hiện tiền. V́ thế, trong Phật pháp, các nhà khoa học ấy được gọi là giải ngộ, chưa chứng đắc, [chỉ là] giải ngộ. Giải ngộ bèn đạt tới cảnh giới rất cao ấy, nhưng nếu lại tiến cao hơn th́ chẳng thể, v́ tiến cao hơn sẽ là kiến tánh. Kiến tánh th́ phải thật sự buông xuống. Chẳng buông xuống, chẳng thể kiến tánh. Do đó, câu “từ quả hướng đến nhân” có ư nghĩa rất sâu, nói cho chúng ta biết: Thường Tịch Quang là một thể hữu cơ, sống động, chẳng phải là chết ngắc, nó có thể hiện hết thảy các tướng. Nó thứ ǵ cũng đều chẳng có, nhưng có thể hiện hết thảy các tướng, có thể sanh ra muôn pháp.

      Những vị đại Bồ Tát này đều đắc Như Lai phước đức trang nghiêm. “Trí huệ thánh minh chẳng thể nghĩ bàn” là nói rơ các vị đại sĩ đều đắc trí huệ trang nghiêm của Như Lai. Trên đây là phước đức trang nghiêm và trí huệ trang nghiêm, “trang nghiêm” ở đây là nói đến sự viên măn. Chúng ta biết, theo kinh Hoa Nghiêm, từ Sơ Trụ trở lên đều chứng đắc [phước trí nhị nghiêm]. Tuy chưa viên măn, nhưng đă sử dụng được, chẳng có chút chướng ngại nào. Do trí huệ và đức tướng đều chẳng có chướng ngại, nên Sơ Trụ Bồ Tát có thể hiện thân Phật, nên dùng thân Phật để độ được, liền hiện thân Phật để thuyết pháp, Sơ Trụ đă làm được. Kế đó, sách viết: “Tịnh Ảnh dữ Chân Giải, Hợp Tán chư gia, giai đồng thử thuyết” (ngài Tịnh Ảnh và tác giả các sách Chân Giải, Hợp Tán đều cùng nói như vậy). Đối với điều này, tổ sư đại đức đều cùng nói giống như nhau.

      “Thánh giả, chánh dă” (Thánh là chánh), đây là giải thích chữ Thánh. “Hựu Triệu công viết: Trí huệ, Thể; thánh minh, Dụng. Vô sự bất chiếu vị chi Thánh. Bồ Tát quyền thật linh chiếu, bất khả dĩ ngôn tư nghĩ nghị kỳ h́nh dung, cố vân bất khả tư nghị” (Ngài Tăng Triệu nói: Trí huệ là Thể. Thánh minh là Dụng. Không sự ǵ chẳng chiếu là Thánh. Bồ Tát Quyền Thật linh chiếu, chẳng thể dùng ngôn ngữ và suy nghĩ để suy đoán, bàn luận h́nh dung của nó, nên bảo là bất khả tư nghị”). Tiếp đó, [cụ Hoàng] giải thích: “Triệu công chi ư vi: Trí huệ thị bản thể, thánh minh thị diệu dụng. Nhất thiết sự giai năng chiếu liễu thông đạt, danh chi vi Thánh. Bồ Tát chi Quyền Trí dữ Thật Trí, sở sanh chi linh minh chiếu dụng, chúng sanh phàm t́nh tuyệt bất năng giải, cố viết bất khả tư, nhất thiết ngữ ngôn bất năng biểu đạt, cố viết bất khả nghị” (Ư của Triệu công là: Trí huệ là bản thể, thánh minh là diệu dụng, đều chiếu rơ, thông đạt được hết thảy sự, nên gọi là Thánh. Thật Trí và Quyền Trí của Bồ Tát phát sanh diệu dụng sáng tỏ vằng vặc để chiếu soi. Chúng sanh do phàm t́nh nên trọn chẳng thể hiểu nổi [diệu dụng ấy], nên bảo là “bất khả tư”. V́ hết thảy ngôn ngữ chẳng thể diễn đạt nổi, nên nói là “bất khả nghị”), chúng ta xem tới đây. Theo Tăng Triệu đại sư[2], trí huệ là Thể. Đối với tầng cấp này, tức là tầng cấp của hàng đại Bồ Tát, Định và Huệ là một, chẳng hai. Huệ là Thể, Định là Dụng, [hoặc nói cách khác], Định là Thể, Huệ là Dụng, sống động, chẳng khô khan. Thể và Dụng dùng lẫn cho nhau, quư vị nói kiểu nào cũng thông suốt. Không sự ǵ chẳng chiếu, đó là trí huệ. Do vậy, kinh Bát Nhă nói “chiếu kiến”, danh từ này được nói rất nhiều, người thế gian chúng ta nói là “khán kiến”, tức là thấy bằng mắt, hoặc quán kiến (quan sát thấy). Trong giáo pháp Đại Thừa nói là “chiếu kiến”, Tâm Kinh nói “chiếu kiến Ngũ Uẩn giai Không”. Câu này đă được các nhà khoa học hiện đại chứng minh, Ngũ Uẩn đúng là rỗng không, các nhà khoa học đă nói rất hay! Vật chất là ǵ? Ư niệm tích lũy liên tục sanh ra huyễn tướng, nói rất hay! Trước kia, chúng tôi học Duy Thức, trong Duy Thức nói tới Kiến Phần và Tướng Phần: Nếu Kiến Phần trông thấy, ngay khi đó, sẽ phát sanh Tướng Phần. Cách nói này khiến cho chúng ta chẳng hiểu rơ từ ngữ. Cổ nhân nói như thế, chúng tôi cũng nói như thế th́ chẳng rơ ràng. Kiến th́ nhất định là phải thấy, đă thấy bèn có huyễn tướng. Ví như quư vị trừng mắt nh́n, trong hư không chẳng có thứ ǵ, nhưng quư vị nhất định muốn thấy. Trừng mắt nh́n hồi lâu, mỏi mắt, [sẽ thấy] trong không trung thật sự hiện ra tướng [hoa đốm lăng xăng]. Dùng phương pháp ấy để nói th́ chẳng hợp khoa học[3], cách nói của các nhà khoa học hay hơn. Sau này, hễ chúng ta nói đến chuyện này (Kiến Phần sanh ra Tướng Phần), bèn có thể dùng cách nói của các nhà khoa học th́ sẽ chánh xác. Có thể thấy là cổ nhân dùng tỷ dụ ấy v́ họ chưa kiến tánh, nên cũng chẳng thấy. Nếu họ đă kiến tánh, sẽ nói rơ ràng, [họ nói lờ mờ] v́ chính họ chưa kiến tánh. Trí huệ khởi tác dụng là thánh minh.

      Không sự ǵ chẳng chiếu th́ gọi là Thánh, năng lực thấy rất rộng: Trọn khắp pháp giới hư không giới. V́ thế, nếu nói thật sự, nói chân thật, tức là nói chân thật theo giáo pháp Đại Thừa, hoàn toàn là cảnh giới của Pháp Thân Bồ Tát. Các Ngài chẳng có thời gian, phải biết điều này: Tuyệt đối chẳng có quá khứ, mà cũng chẳng có vị lai, chỉ có ngay trong hiện tại. Không chỉ chẳng có thời gian, mà c̣n chẳng có không gian; không gian cũng chẳng tồn tại. Không gian chẳng tồn tại th́ khoảng cách chẳng c̣n nữa, [nói tới] không gian là [nói tới] khoảng cách. Tây Phương Cực Lạc thế giới ở nơi đâu? Ngay tại nơi đây. Thế giới Hoa Tạng của Tỳ Lô Giá Na Phật ở chỗ nào? Ngay tại nơi đây. Do vậy, nói chân thật cùng quư vị, sẽ là ngay trong lúc này, mười đời xưa nay chẳng ĺa một niệm. Một niệm hiện hữu, niệm niệm đều là một niệm ngay trong lúc này. Đấy là nói lời chân thật, nói ra chân tướng với chúng ta, một niệm là thật. Do đó, quư vị thấy kinh Phật mở đầu bằng: “Như thị ngă văn, nhất thời”, đức Phật nói lời chân thật, “nhất thời” là thật. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, giảng kinh Vô Lượng Thọ, có “tại” hay không? Có, nhất thời! Nếu chúng ta đạt tới nhất thời, sẽ thấy Thích Ca Mâu Ni Phật đang giảng kinh. Thời gian chẳng có, ba ngàn năm trước hay ba ngàn năm sau chi nữa đều chẳng có, ở ngay trong lúc này, quư vị thấy núi Linh Thứu ở ngay nơi đây! Đời Đường, Trí Giả đại sư niệm kinh Pháp Hoa, niệm đến phẩm Dược Vương, lăo nhân gia nhập Định, thấy Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Pháp Hoa ở núi Linh Thứu, thấy vẫn c̣n có chỗ trống, bèn ngồi nơi đó nghe giảng một buổi. Sau khi xuất Định, kể với mọi người: Hội Linh Sơn chưa giải tán, Ngài tham gia, nghe giảng ở đó một buổi.

Do vậy, trong kinh, đức Phật thường nói: “Hết thảy các pháp chẳng ĺa tự tánh”. Lại nói “ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm” đều nhằm tiết lộ chân tướng này. Chúng ta nghe chẳng hiểu, dường như hiểu mà chẳng hiểu, nửa tin, nửa ngờ. Nếu thật sự hiểu, không khẩn yếu chi! Nếu chẳng hiểu, không sao cả! Hăy cứ nghe hằng ngày, cổ nhân nói: “Đọc sách ngàn lượt, tự thấy ư nghĩa”. Chúng ta ngốc hơn người khác, người ta nghe một ngàn lượt, chúng ta nghe một vạn lượt bèn hiểu, v́ sao? Huân tập thành chủng tử, huân tập thành căn, căn ấy sẽ sanh ra sức mạnh. Huân tu lâu dài, phải huân tập nó thành chủng tánh của ta, nó sẽ khởi tác dụng. Đó cũng là một phương pháp để minh tâm kiến tánh trong tám vạn bốn ngàn pháp môn. Phải biết: Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều là các phương pháp để minh tâm kiến tánh, phương pháp nào thích hợp với ta, ta bèn dùng phương pháp ấy. Học rộng nghe nhiều cũng là một phương pháp, căn tánh mỗi người khác nhau. Trong xă hội hiện tiền, nay là thời Mạt Pháp, lại c̣n là lúc Phật pháp suy vi đến cùng cực. Khắp thế giới sơ sót giáo dục luân lư, đạo đức. Có thể nói luân lư đạo đức tương ứng với giáo dục tự tánh, nhưng đă bỏ mất. Nhà Phật có một thuật ngữ là “xứng tánh”, nhưng hiện thời đă hoàn toàn mê mất tự tánh. Mê gần như nghiêm trọng đến mức một trăm phần trăm, cho nên học Phật đặc biệt khó khăn! Phương pháp này của Tịnh Tông được mười phương chư Phật giới thiệu, chẳng riêng ǵ một ḿnh Thích Ca Mâu Ni Phật, mà là mười phương chư Phật giới thiệu. Trong hoàn cảnh khó khăn đến tột cùng, các pháp môn khác đều bị chướng ngại trùng trùng, rất khó học tập, pháp môn này đơn giản. Thậm chí quư vị chẳng cần đọc kinh, chỉ là một câu Phật hiệu.

      Chúng ta đang ở Hương Cảng. Năm xưa, tôi nghe lăo pháp sư Đế Nhàn thường kể với mọi người: Lăo ḥa thượng Đế Nhàn có một người đồ đệ làm thợ vá nồi. Người này là bạn cùng chơi đùa thuở bé của pháp sư Đế Nhàn, tuổi tác chẳng chênh lệch cho mấy, ở trong thôn trang. Sau khi trưởng thành, gia cảnh nghèo hèn, chẳng có cơ hội đi học, bèn học một nghề thủ công là vá nồi, vá chén, dùng nghề mọn ấy để kiếm sống hết sức khổ sở. Thuở bé tôi thường thấy thợ vá nồi gánh một gánh nhỏ đi rảo trong làng vá nồi, vá chén. V́ thế, khi Ngài (pháp sư Đàm Hư) nói chữ ấy, tôi hiểu ngay, ông ta sống bằng nghề đó. Ông ta cảm thấy cuộc đời quá khổ, thấy bạn xuất gia, xuất gia cũng khá, bèn t́m đến, thưa với ngài Đế Nhàn, ông ta cũng muốn xuất gia, bái ngài Đế Nhàn làm sư phụ. Pháp sư Đế Nhàn nói: “Không được! Ông cứ làm nghề của ḿnh đi, xuất gia há phải dễ dàng! Ông xuất gia, chậm lụt như vậy, mà cũng chẳng biết chữ, đầu óc chậm chạp, đoán chắc là học kinh sám, Phật sự, gơ pháp khí, xướng niệm đều học không nổi, tay chân vụng về! Học giảng kinh th́ lại chẳng biết chữ”. V́ thế, cự tuyệt ông ta. Nhưng ông ta vẫn một mực nằn ń, chẳng chịu đi, không cho ông ta xuất gia cũng không được. Cụ Đế Nhàn chẳng c̣n cách nào, bèn đặt điều kiện với ông ta. Sư nói: “Nếu ông thật sự muốn xuất gia, tôi có mấy điều kiện, ông có thể làm được th́ cho phép ông xuất gia”. Ông ta thưa: “Được! Nếu tôi bái thầy làm sư phụ, thầy dạy tôi điều ǵ, tôi cũng đều làm theo”. Lăo pháp sư Đế Nhàn bất đắc dĩ cho ông ta xuống tóc. Chẳng ở trong chùa được, v́ ở trong chùa có rất nhiều quy củ. Ông ta cũng đă bốn mươi mấy tuổi rồi, những tật xấu, tập khí chẳng dễ ǵ sửa được. V́ thế, đến vùng quê, t́m cho ông ta một ngôi chùa nhỏ, chẳng có ai ở, là một ngôi chùa hư nát, cho ông ta ở đó. Dạy ông ta niệm một câu Nam-mô A Di Đà Phật. Dạy ǵ khác ông ta cũng không hiểu, bèn dạy ông ta niệm: “Ông hăy niệm câu này, suốt ngày niệm câu Nam-mô A Di Đà Phật. Niệm đă mệt bèn nghỉ ngơi, nghỉ khỏe khoắn rồi lại niệm tiếp”. Làm như vậy sẽ nhẹ nhàng, thong dong, chẳng có áp lực ǵ. Chẳng phân biệt ngày, đêm, hễ niệm đă mệt bèn nghỉ ngơi, hễ nghỉ đă khỏe, bèn lập tức tiếp tục niệm. Trong làng quê, Sư t́m một bà cụ học Phật, ở gần đó, mỗi trưa đến nấu cơm trưa và cơm chiều, nấu hai bữa cơm, c̣n bữa điểm tâm do ông ta tự nấu, tự lo. Bà cụ giặt giũ quần áo cho ông ta để ông ta chuyên tâm niệm Phật.

      Niệm suốt ba năm, đến một hôm, ông ta bảo bà cụ hộ tŕ: “Ngày mai bà không cần nấu cơm, tôi vào thành gặp bạn bè”. Trên thực tế, ông ta biết trước lúc mất, sắp văng sanh, nên quay về từ biệt thân thích, chào hỏi, thăm viếng. Hôm sau trở về, khi trở về, bèn nói với bà cụ: “Ngày mai chẳng cần nấu cơm cho tôi”. Bà cụ lại tưởng ông ta đến thăm bạn bè, chẳng biết người bạn nào sẽ mời ông ta ăn cơm. Đến bữa sau, cụ ra chùa xem, coi sư phụ có nhà hay không? Kết quả là thấy sư phụ ở trong Phật đường, đứng trước tượng Phật, gọi th́ chẳng ừ hử ǵ, đến trước mặt xem kỹ, thấy ông ta đă mất, đứng mất! Liền vội vă quay về báo tin, v́ c̣n có mấy đồ đệ quy y với cụ Đế Nhàn ở vùng phụ cận, thảy đều báo tin cho họ biết, gọi họ đến xem. Trước nay chưa từng thấy người đứng mất, rất hiếm hoi, lạ lùng! Những người ấy sau khi t́m đến, bèn vội đến Quán Tông Tự[4] thưa tŕnh. Từ nông thôn đến thành thị chẳng có phương tiện giao thông, phải đi bộ, đi một ngày mới đến nơi, thưa chuyện với ḥa thượng Đế Nhàn. Ḥa thượng Đế Nhàn chuẩn bị, sắp xếp, đến hôm sau mới trở lại, đi về mất ba ngày. Ông ta đứng sững suốt ba ngày, chờ lăo pháp sư Đế Nhàn đến lo liệu hậu sự. Cụ Đế Nhàn thấy t́nh h́nh ấy, rất tán thán: “Ông rất lỗi lạc! Thật sự có thành tựu. Bất cứ trụ tŕ hay phương trượng chùa miếu nào nơi danh sơn bảo sát đều chẳng bằng ông. Những pháp sư thông Tông, thông Giáo, giảng kinh cũng chẳng sánh bằng ông!” Một câu A Di Đà Phật mà thôi! Người ấy chưa từng nghe kinh ngày nào, nhưng nghe lời, đúng là thật thà, thật sự làm. Trừ một câu A Di Đà Phật ra, điều ǵ ông ta cũng chẳng hiểu, [thế mà] biết trước lúc mất, tự tại văng sanh, lại c̣n đứng sững suốt ba ngày. Coi như lăo pháp sư Đàm Hư và người thợ vá nồi là đồng học, đều cùng là học tṛ của lăo ḥa thượng Đế Nhàn, Ngài thường kể chuyện này để khích lệ người niệm Phật. Quư vị thấy thời gian không dài, ba năm đă đến thế giới Cực Lạc làm Phật, có công phu như vậy chẳng đơn giản. Lời cụ Đế Nhàn nói là thật, chẳng giả!

      Do vậy, vấn đề là chúng ta có chịu tin tưởng hay không, chịu phát nguyện hay không, buông xuống vạn duyên, phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm, bèn thành công. Người thợ vá nồi ba năm thành công. Mấy năm trước, tại Thâm Quyến, ông Hoàng Trung Xương ba mươi tuổi mới lộ diện. Ông ta nghe tôi giảng kinh thường dẫn ra những câu chuyện bèn rất hoan hỷ, cũng rất muốn học theo, dùng ba năm để làm thử xem [chính ḿnh] có thể làm được hay không. Bà Hướng Tiểu Lỵ hộ quan cho ông ta. Ông ta bế quan ba năm, c̣n thiếu hai tháng là đầy ba năm, tức là hai năm mười tháng, cũng biết trước lúc mất, A Di Đà Phật tiếp dẫn ông ta về thế giới Cực Lạc. Hai năm mười tháng! Làm cho chúng ta thấy, ông ta thử xem rốt cuộc là thật hay giả, bèn thành công. Niệm Phật văng sanh là chuyện ngàn vạn phần xác đáng, chẳng giả tí nào, vấn đề là quư vị không chịu làm th́ chẳng có cách nào cả! Sanh về thế giới Cực Lạc là đi làm Phật, kinh đă nói hết sức hay: “Dẫu là hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, hễ đến thế giới Cực Lạc bèn là A Duy Việt Trí Bồ Tát”. A Duy Việt Trí là ba món Bất Thoái. Vị Bất Thoái th́ A La Hán làm được, Hạnh Bất Thoái, Bồ Tát làm được; nhưng Niệm Bất Thoái th́ phải là Pháp Thân Bồ Tát, minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, cũng là vượt thoát mười pháp giới. Theo kinh Hoa Nghiêm, từ Viên Giáo Sơ Trụ trở lên mới là Niệm Bất Thoái. Cổ đại đức cũng có thuyết cho rằng: Từ Thất Địa trở lên [mới là Niệm Bất Thoái]. Chúng ta chẳng tính từ Thất Địa trở lên, chỉ tính từ Viên Giáo Sơ Trụ trong Hoa Nghiêm trở lên th́ đă rất lỗi lạc, [Niệm Bất Thoái] sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Trong thế giới Cực Lạc, hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Đồng Cư, do được bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, cho nên người văng sanh ấy cũng hưởng thụ sự đăi ngộ của A Duy Việt Trí Bồ Tát, tức là sự đăi ngộ do ba món Bất Thoái. Có sự đăi ngộ ấy, giống như trong phần trên đă nói, người ấy có năng lực ứng hóa: Chúng sanh có duyên với người ấy trong khắp pháp giới hư không giới hễ nhắn tin cho người ấy, người ấy liền có thể ứng hóa. Cung cấp tin tức cho người ấy là cảm, người ấy bèn ứng, nên dùng thân ǵ để độ được bèn hiện thân ấy, nên dùng pháp ǵ để hóa độ người ấy bèn dùng pháp đó. Cũng có thể nói là [người ấy đă] thông suốt toàn bộ mười phương ba đời tất cả Phật pháp và pháp thế gian v́ chẳng ĺa tự tánh. Chỉ cần quư vị kiến tánh bèn thông suốt toàn bộ.

      Do vậy, tôi nói những người ấy là người thật sự thông minh, tốn thời gian ba năm bèn thông suốt, đạt được toàn bộ, há có nhiều nỗi phiền phức [như trong các pháp môn khác]! Pháp môn hy hữu, khó gặp, mà chúng ta có duyên gặp gỡ. Đă gặp gỡ mà chẳng thể nắm vững, hăy c̣n hoài nghi, vẫn chưa thể hoàn toàn tin tưởng pháp môn này, đó là nghiệp chướng của chính ḿnh! Trước mắt đă có lắm chứng cứ ngần ấy, những người như ông thợ vá nồi hoặc Hoàng Trung Xương đă làm Tác Chứng Chuyển trong ba thứ chuyển pháp luân, chứng minh cho chúng ta, chứng minh pháp môn này, chứng minh thế giới Cực Lạc, chứng minh niệm Phật văng sanh chẳng giả tí nào. Do đó, trí huệ chiếu kiến. Chúng ta cũng phải dùng trí huệ để soi thấu suốt thế gian này, đối với bất cứ tai nạn nào, cũng đều chẳng có mảy may sợ hăi ǵ, biết tai nạn do nguyên nhân nào phát sanh, và cũng biết phương pháp ǵ để có thể hóa giải. Hiềm rằng chúng sanh chẳng tin tưởng, chẳng thể tiếp nhận, đó là do cộng nghiệp cảm vời. Tai nạn xảy tới giống hệt nhau, nhưng mỗi người đi về một chỗ khác nhau, người niệm Phật chúng ta có chỗ để người niệm Phật sanh về. V́ thế, hiện thời phải đặt chuyện này lên đầu, tức là xếp niệm Phật văng sanh hàng đầu. Người thật sự có công phu ấy, giống như ông Hoàng Trung Xương, nếu chẳng đến thế giới Cực Lạc, ở thêm [trong thế gian này] mấy năm nữa có được hay không? Được chứ! Chẳng phải là không được, đến đi tự do. Người thợ vá nồi trụ thêm mấy năm cũng được. V́ sao phải ra đi như vậy? Dùng phương pháp ấy để độ chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh, đó là đại từ đại bi, nêu gương tốt cho chúng sanh, khiến cho mọi người kiên định tín tâm, nghiêm túc học tập, tương lai ai nấy đều văng sanh. V́ thế, chúng ta phải nới rộng tầm mắt, nh́n cho xa, thấy cho sâu, quư vị sẽ liễu giải hành động của những người ấy là công đức chân thật!

      Tiếp đó, [cụ Hoàng] nói ư của ngài Tăng Triệu là: Trí huệ là bản thể, thánh minh là diệu dụng. Hết thảy mọi sự đều có thể soi tỏ thông đạt bèn gọi là Thánh. Người Hoa gọi là thánh nhân, ở Ấn Độ gọi là Phật. Quyền Trí và Thật Trí của Bồ Tát: Quyền Trí là phương tiện thiện xảo, Thật Trí là Căn Bản Trí. Thật Trí là Định, thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, Quyền Trí là phương tiện thiện xảo, ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày, tự hành, hóa độ người khác. Sanh ra tác dụng chiếu soi linh minh, chúng sanh do phàm t́nh trọn chẳng thể hiểu được. V́ sao? Chúng sanh có phân biệt, chấp trước, v́ thế, họ chẳng thể hiểu, đó gọi là “bất khả tư”, tức là chẳng thể suy tưởng. Hễ suy tưởng bèn rớt vào ư thức, sai mất rồi! Hết thảy ngôn ngữ chẳng thể biểu đạt, nên là “bất khả nghị”, “nghị” () là nghị luận, là thảo luận, nói năng. “Phi ngữ ngôn phân biệt chi sở năng tri, cố kỳ h́nh kỳ dung vô pháp nghĩ nghị” (Do ngôn ngữ, phân biệt chẳng thể biết được, nên không có cách nào mô tả, bàn luận h́nh tướng của trí huệ ấy), t́m không ra phương pháp thích đáng để tỷ dụ. Do đó, đến cuối cùng, đức Phật nói: Duy chứng phương tri” (chỉ có chứng mới biết), quư vị thật thà tu hành, đạt đến cảnh giới này, sẽ tự nhiên hiểu rơ.

      “Hựu bất khả tư nghị hữu nhị chủng, nhất giả Lư Không” (“chẳng thể nghĩ bàn” lại có hai loại, một là Lư Không). Chữ Không này chẳng dễ hiểu! Không chẳng phải là Vô (không có ǵ), mà Không là Có! V́ sao chẳng nói là Có, lại nói là Không? V́ lục căn của quư vị chẳng duyên được! Lư là ǵ? Lư là tự tánh, tự tánh là Lư Thể. Tất cả hết thảy các pháp đều sanh từ nó, nó có thể sanh, có thể hiện. Thức có thể biến, thức là phân biệt, chấp trước. Phân biệt, chấp trước có thể sanh ra biến hóa, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do thức biến. Nhất Chân pháp giới, cơi Thật Báo của chư Phật do tâm hiện, chẳng có thức biến, mà do tâm hiện. Tâm sanh, tâm hiện, mười pháp giới là thức biến, đó là Lư. Lư Thể là tự tánh, nên chẳng phải là “hoặc t́nh” (惑情: t́nh chấp do phiền năo tạo thành). Hoặc () là vô minh phiền năo, là khởi tâm động niệm, T́nh () là phân biệt, chấp trước. Quư vị có khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, sẽ chẳng có cách nào, chắc chắn chẳng đạt được [“bất khả tư nghị”]. Chỉ cần quư vị đoạn hết Hoặc T́nh, chân tướng liền ở ngay trước mặt, bèn hoàn toàn hiểu rơ.

Loại thứ hai là “thần kỳ”. “Thần kỳ” (神奇) là Bồ Tát ứng hóa, khởi tác dụng, “phi thiển thức sở lượng”, [nghĩa là] người kiến thức kém cỏi, nông cạn sẽ chẳng biết. “Hựu Trí Độ Luận viết: Tiểu Thừa pháp trung vô bất khả tư nghị sự, duy Đại Thừa pháp trung hữu chi, như lục thập tiểu kiếp thuyết Pháp Hoa Kinh vị như thực khoảnh” (Trí Độ Luận lại nói: “Trong pháp Tiểu Thừa, chẳng có chuyện chẳng thể nghĩ bàn, chỉ có pháp Đại Thừa là có, như sáu mươi tiểu kiếp nói kinh Pháp Hoa mà nói là như trong khoảng một bữa ăn”). Đó là ǵ? Thời gian là giả, chẳng thật. Trong pháp Tiểu Thừa đều là có thể nghĩ, có thể bàn, có thể thảo luận, có thể nghiên cứu, pháp Đại Thừa th́ không được. Trong pháp Đại Thừa có chuyện chẳng thể nghĩ bàn. Do vậy, luận lư, biện chứng pháp (dialectic), lư tắc học (logic), áp dụng những phương pháp luận khoa học đó vào kinh Tiểu Thừa th́ được, nhưng vô dụng đối với kinh Đại Thừa, v́ kinh Đại Thừa vượt ngoài lư luận.

Tôi nhớ thuở trước, lúc mới xuất gia chưa được bao lâu, pháp sư Đạo An dùng danh nghĩa của hội Phật giáo Trung Hoa tổ chức một hoạt động là Đại Chuyên Phật Học Giảng Ṭa, cũng làm được vài năm. Lăo ḥa thượng muốn tôi đảm nhiệm vai tṛ tổng chủ giảng trong giảng ṭa, tôi nhớ đă đảm nhiệm chức vụ ấy ba năm mấy. Khi đó, tôi mời tiên sinh Phương Đông Mỹ giảng phương pháp luận cho chúng tôi. Phương pháp luận trong khoa học là Lư Tắc Học, trong Phật pháp gọi là Nhân Minh, dùng kinh bổn Phật pháp để giảng [Lư Tắc Học] th́ gọi là Nhân Minh, mời thầy mở khóa học ấy. Thầy bảo tôi: “Tiểu Thừa th́ có thể dùng, sơ cấp th́ có thể dùng, chứ tiến cao hơn, toàn bộ chẳng dùng được”. Lần đầu tiên, tôi nghe thầy Phương nói chân tướng sự thật ấy: [Phương pháp luận khoa học] chẳng thể áp dụng cho pháp Đại Thừa. Quư vị thấy sáu mươi tiểu kiếp, thời gian ấy dài lắm! Hai mươi tiểu kiếp là một trung kiếp, sáu mươi tiểu kiếp là ba trung kiếp, đức Phật giảng ǵ? Giảng kinh Pháp Hoa giống như trong một “thực khoảnh” (食頃), tức là thời gian một bữa cơm. Đó là nói về thời gian. Có thể thu gọn sáu mươi tiểu kiếp thành một “thực khoảnh”, tức là thời gian một bữa cơm, thời gian một bữa cơm có thể triển khai thành sáu mươi tiểu kiếp. Đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm càng chẳng thể nghĩ bàn, kinh nói là “nhị thất nhật trung”, nhị thất (二七) là mười bốn ngày. Ngài giảng bao nhiêu? Tam thiên đại thiên thế giới vi trần kệ, một tứ thiên hạ vi trần[5] phẩm. Trong long cung, Long Thọ Bồ Tát thấy địa cầu chẳng thể chứa đựng toàn bộ nguyên văn kinh Hoa Nghiêm! Trong mười bốn ngày, có thuyết nói là hai mươi mốt ngày, sao lại có thể làm như vậy được? Nếu quư vị niệm bộ kinh ấy một lượt, nói theo trạng huống trong nhân gian chúng ta hiện thời, quư vị niệm một trăm năm cũng chẳng xong, niệm một bộ cũng chẳng xong. V́ sao tôi biết? Tôi nh́n vào Tứ Khố Toàn Thư, quư vị mỗi ngày đọc Tứ Khố Toàn Thư tám tiếng đồng hồ, đọc suốt một trăm năm vẫn chưa xong. Kinh Hoa Nghiêm to hơn bộ sách ấy nhiều lắm. Đúng là vô lượng kiếp cô đọng thành mười bốn ngày, thật sự chẳng thể nghĩ bàn!

     

(Kinh) Như thị đẳng chư đại Bồ Tát, vô lượng vô biên, nhất thời lai tập.

() 如 是 等 諸 大 菩 薩,無 量 無 邊,一 時 來 集。

(Kinh: Các vị đại Bồ Tát như thế vô lượng vô biên, cùng một lúc nhóm họp).

 

Những vị Bồ Tát cùng một đẳng cấp, tức là Pháp Thân Bồ Tát, vô lượng vô biên! Nói rơ: Chẳng phải là một vạn hai ngàn người cùng một lúc nhóm họp. “Tổng kết dĩ thượng đức tuân Phổ Hiền chi chư đại Bồ Tát, vị thính văn, tán dương Tịnh Tông diệu pháp cố, vị quảng hoằng Phổ Hiền nguyện vương cố, vị phổ độ thập phương tam thế nhất thiết hữu t́nh, văng sanh Tịnh Độ cứu cánh Niết Bàn cố, đồng đức, đồng tâm, nhất thời lai hội. Tịnh Ảnh Sớ viết: Vị pháp tâm đồng, cố lai nhất thời” (Tổng kết: Các vị đại Bồ Tát trên đây đều là đức tuân Phổ Hiền, do nghe giảng, khen ngợi diệu pháp Tịnh Tông, do hoằng truyền rộng răi nguyện vương Phổ Hiền, v́ phổ độ mười phương ba đời hết thảy hữu t́nh văng sanh Tịnh Độ, [đạt đến] Niết Bàn rốt ráo, đồng đức, đồng tâm, nên cùng một lúc nhóm đến. Tịnh Ảnh Sớ viết: “V́ pháp và tâm giống nhau, nên cùng lúc nhóm đến”). Đoạn này là tổng kết. Đoạn tiếp theo cho biết trong đại hội này c̣n có những người như dưới đây.

 

(Kinh) Hựu hữu tỳ-kheo-ni ngũ bách nhân.

() 又 有 比 丘 尼 五 百 人。

(Kinh: Lại có tỳ-kheo-ni năm trăm vị).

 

      Đây là nữ chúng xuất gia.

 

      (Kinh) Thanh tín sĩ thất thiên nhân.

     () 清 信 士 七 千 人。

      (Kinh: Thanh tín sĩ bảy ngàn người).

 

      Đây là cư sĩ, ưu bà tắc.

     

      (Kinh) Thanh tín nữ ngũ bách nhân.

     () 清 信 女 五 百 人。

(Kinh: Thanh tín nữ năm trăm người).

 

      Đây là nữ cư sĩ. C̣n có:

 

      (Kinh) Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên, chư thiên Phạm chúng, tất cộng đại hội.

      () 欲 界 天。色 界 天。諸 天 梵 眾。悉 共 大 會。

      (Kinh: Trời Dục giới, trời Sắc giới, chư thiên Phạm chúng đều cùng tới trong đại hội).

 

      Đoạn giải thích sau phần này của lăo cư sĩ chúng ta đọc qua là được rồi. “Thanh tín sĩ tức Ưu Bà Tắc, thanh tín nữ tức Ưu Bà Di. Dĩ thượng kinh văn, độc kiến Hán dịch. Ngụy dịch tắc cẩn hữu Bồ Tát dữ tỳ-kheo chúng. Tống dịch kinh mạt viết: ‘Tịnh thiên long bát bộ nhất thiết đại chúng, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ’, quân quảng ư Ngụy dịch” (“Thanh tín sĩ” là Ưu-bà-tắc (Upāsaka). “Thanh tín nữ” là Ưu-bà-di (Upāsikā). Đoạn kinh trên chỉ thấy trong bản Hán dịch, bản Ngụy dịch chỉ chép chúng Bồ Tát và tỳ-kheo. Cuối bản Tống dịch chép: Cùng trời, rồng, tám bộ, hết thảy đại chúng, nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ lớn”, như vậy đều là phần nói rộng của bản Ngụy dịch vậy). Trên đây là Tự Chứng Phần, chúng ta học tới chỗ này. Hôm nay vừa khéo đă hết thời gian, ngày mai chúng ta sẽ xem phần Đại Giáo Duyên Khởi Đệ Tam, tức là Biệt Tự, Biệt Tự của bản kinh này.

 

Tập 138

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm năm mươi bảy, “Thứ Biệt Tự” (kế đến là Biệt Tự), xem từ chỗ này.

      “Hạ nhất phẩm vi Biệt Tự, diệc vi Phát Khởi Tự. Tự trung Như Lai hiện thụy, phóng quang, A Nan hỷ duyệt thỉnh vấn, Thế Tôn chánh đáp sở nghi, diễn xuất nhất bộ quảng đại, viên măn, giản dị, trực tiệp, phương tiện, cứu cánh, đệ nhất hy hữu, nan phùng pháp bảo Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh. Đại Giáo Duyên Khởi đệ tam” (Phẩm tiếp theo đây là Biệt Tự, cũng là Phát Khởi Tự. Trong phần này, Như Lai hiện tướng lành, phóng quang, A Nan hoan hỷ thưa hỏi, Thế Tôn đáp thẳng vào điều nghi, diễn xuất một bộ pháp bảo quảng đại, viên măn, đơn giản, dễ dàng, nhanh tắt, phương tiện rốt ráo, hy hữu bậc nhất, khó được gặp gỡ là kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác. Đại Giáo Duyên Khởi, phẩm thứ ba).

Mấy câu mào đầu này của cụ Niệm Tổ nhằm nêu bày nhân duyên thù thắng của bộ kinh này, quả thật là hy hữu khó gặp khôn sánh. Học Phật phải thâm nhập Kinh Tạng. Kinh Tạng ở đây chẳng phải là nói đến Đại Tạng Kinh. Ư nghĩa thật sự của “thâm nhập Kinh Tạng” là minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ. Chúng ta biết đức Thế Tôn thuở tại thế, giảng kinh, giáo học không ǵ chẳng phải là ứng cơ thuyết pháp (thuyết pháp thuận theo căn cơ). Nói cách khác, một người chẳng thể học rất nhiều kinh điển và pháp môn. Quư vị có nghi hoặc, hướng về đức Thế Tôn thỉnh giáo, Ngài chỉ dạy quư vị một phương pháp, quư vị có thể tu tốt đẹp phương pháp ấy, sẽ đạt được toàn bộ hết thảy các pháp, đó mới gọi là “thâm nhập Kinh Tạng”. Bất luận là bộ kinh điển nào, pháp môn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp. V́ thế, một bộ kinh thông, hết thảy các kinh đều thông. Nếu quư vị nói “hết thảy các kinh đều thông, hăy c̣n có một hai bộ chưa thông”, đó là giả!

Trong Ấn Quang Đại Sư Văn Sao, có rất nhiều ví dụ như vậy. Năm xưa, tôi mới học Phật, thầy chỉ định công khóa ấy cho tôi tự học tập. [Theo Văn Sao], từng có một người tu Thiền, đổ công sức tu tập chẳng ít năm, trong bộ Ngũ Đăng Hội Nguyên của Thiền Tông có một ngàn bảy trăm công án, nói theo cách hiện thời, đó là những gương khai ngộ, [bộ sách ấy chép] gương khai ngộ của hơn một ngàn bảy trăm người, phương pháp mỗi người mỗi khác. Người ấy rất thích Thiền, tốn vài chục năm [nghiên cứu], viết thư gởi Ấn Quang đại sư, nói gần như một ngàn bảy trăm công án ông ta đều tham thấu triệt, đều hiểu rơ, chỉ có vài công án hăy c̣n vướng mắc. Ấn Quang đại sư viết thư trả lời: Đặc biệt là những thứ trong Tông Môn, hễ một ngộ th́ hết thảy ngộ. Nếu trong một ngàn bảy trăm công án mà ông tham thấu triệt, hiểu rơ một công án, sẽ hiểu được toàn bộ. Ông nói ông gần như đều hiểu trọn, nhưng c̣n một hai công án chẳng tham thấu triệt, tức là ông hoàn toàn chẳng hiểu công án nào cả! Người ấy sau đó chẳng c̣n học Thiền, buông Thiền xuống, theo Ấn Quang đại sư niệm A Di Đà Phật. Giả trất, khi thật sự kiến tánh, há c̣n có thứ ǵ chẳng hiểu? Chẳng có lẽ ấy! Nay chúng ta hiểu lư này, v́ sao? Hết thảy các pháp chẳng ĺa tự tánh. Chỉ cần quư vị kiến tánh, bất luận quư vị đă học rồi hay chưa, dẫu là Phật giáo, hay là các tôn giáo khác, thậm chí tất cả học thuật thế gian như khoa học kỹ thuật hiện thời, chẳng có một điều nào quư vị không biết. Nếu có điều ǵ quư vị chẳng biết, tức là quư vị chưa kiến tánh, kiến tánh chẳng phải là giống như vậy. Chư vị chớ nên không biết chuyện này.   

V́ sao? Người thế gian mê mất tự tánh rất sâu, nhưng trọn chẳng biết. Họ cũng chẳng phải là cố ư lừa gạt người khác. Trong Phật pháp có một danh từ là Tăng Thượng Mạn. Sự ngạo mạn ấy chẳng phải là thật sự mong gạt người! Kẻ ấy chưa chứng đắc, nhưng cứ tưởng chính ḿnh đă chứng đắc. Chẳng ngộ nhập kinh giáo, cứ tưởng chính ḿnh đă ngộ nhập. Năm xưa, tôi c̣n gặp một người, người ấy là vợ của một người bạn thân thiết của tôi. Người bạn ấy c̣n kể như là cấp trên của chúng tôi, nhưng không trực tiếp cai quản chúng tôi, ông ta là một vị tướng quân trong cơ quan của tôi. Vợ ông ta cũng học Phật. Tôi vừa học Phật, bà ta rất hoan hỷ. Có một hôm mời tôi đến nhà bà ta, kiên quyết nói bà đă chứng đắc quả A La Hán. Tôi nói cách nào bà ta cũng lắc đầu: “Tôi đă thật sự chứng đắc, chẳng giả”. Đến cuối cùng, tôi hết cách, liền bảo bà ta: Đối với sáu thứ năng lực, Sơ Quả Tu Đà Hoàn khôi phục hai thứ, c̣n A La Hán th́ cả sáu thứ đều khôi phục, [các năng lực ấy] được gọi là Lục Thần Thông, hay Lục Thông. Tôi nói: Sơ Quả Tu Đà Hoàn có năng lực là Thiên Nhăn Thông và Thiên Nhĩ Thông. Thiên Nhăn Thông là ǵ? Bà ta sẽ có thể thấy [những vật] ở ngoài vách tường. Nhà bà ta ở cạnh một con sông nhỏ, hai bên là một con đường. Tôi nói: Chúng ta ngồi ở chỗ này, vừa khéo chỗ bà ta ngồi đối diện cửa lớn, chẳng có cửa sổ. Tôi nói: “Người bên ngoài làm này nọ, bà có thể thấy hay không?” Bà ta đáp: “Chẳng thấy”. Tôi nói: “Vậy là giả, chẳng thật! Cách một bức tường mà bà đă chẳng có năng lực nh́n xuyên qua, lấy đâu ra Thiên Nhăn Thông?” Tôi nói A La Hán có Thiên Nhăn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Thần Túc Thông, Lậu Tận Thông, đó là A La Hán thật sự. Nói như vậy, bà ta mới phục. V́ thế, chẳng phải là bà ta lừa gạt chúng tôi mà là hiểu lầm.

Người như vậy xưa nay rất nhiều, không chỉ là kẻ tại gia, người xuất gia cũng chẳng phải là ngoại lệ. Trong câu chuyện Dă Hồ Thiền thời thiền sư Bách Trượng, [nhân vật chính] là người xuất gia, chẳng phải kẻ tại gia, cũng là một vị pháp sư. Có người hướng về vị ấy thưa hỏi, vị ấy tùy tiện đáp, v́ cũng tưởng chính ḿnh đă thông suốt. Người ta hỏi câu ǵ? Người đại tu hành có c̣n rơi vào nhân quả hay không? Sư trả lời “không rơi vào nhân quả”. Vị pháp sư ấy, tức vị pháp sư trả lời câu hỏi ấy, sau khi chết liền đọa làm thân chồn, nên gọi là “dă hồ thân” (thân chồn hoang), [mang thân chồn] suốt năm trăm đời, do nói sai một chữ. V́ sao? Hướng dẫn người khác sai lầm! Vấn đề này nghiêm trọng lắm! Con chồn ấy xem như trong đời quá khứ có tu hành, là pháp sư trong Phật môn, trong năm trăm đời cũng tu luyện thành thân người, chẳng dễ dàng. Thị hiện thành một cụ già, râu tóc đều trắng toát, cụ già mà! Bách Trượng đại sư hằng ngày giảng kinh, cụ già đều đến nghe, là một thính chúng rất kiền thành. Người khác đều không biết, chỉ có Bách Trượng đại sư biết cụ già chẳng phải là người, mà là hồ ly tinh, nhưng ông cụ chẳng có ác ư, chẳng hại người. Có một hôm, ông cụ hướng về Bách Trượng đại sư nói chính ḿnh có câu hỏi: “Làm thế nào để thoát thân súc sanh?” Bách Trượng đại sư nói: “Được rồi, ngày mai ông đến đây. Trong quá khứ, người ta hỏi ông như thế nào, ông cứ hỏi tôi [như vậy]”. Đến hôm sau, Bách Trượng đại sư thăng ṭa, ông cụ liền quỳ xuống thỉnh giáo, thưa hỏi: “Bậc đại tu hành có c̣n rớt trong nhân quả hay không?” Bách Trượng thiền sư sửa một chữ, thành “bất muội nhân quả” (chẳng lầm nhân quả). Quư vị thấy trước kia cụ già nói “chẳng rơi vào nhân quả”, nay [ngài Bách Trượng nói] “chẳng lầm nhân quả”, cụ liền giác ngộ, ngày hôm sau liền thoát khỏi thân chồn. Lăo ḥa thượng biết: “Đi thôi! Chúng ta đến sau núi, cầm theo ky và cuốc”. Đại sư nói: “Chúng ta đến lo liệu hậu sự cho ông ta, ngày hôm qua cụ già ấy đă văng sanh”. Đến sau núi, quả nhiên thấy một con chồn, bèn dựa theo lễ tiết dành cho người xuất gia để mai táng, chôn cất. Đại sư liền nói người xuất gia này đời quá khứ là một vị đại pháp sư [bị đọa thân chồn v́] đă nói sai một chữ.

Nói năng chẳng thể không gánh trách nhiệm, nếu viết thành sách lại càng chẳng được. Viết thành sách th́ đến khi nào quư vị mới có thể thoát tội? Khi nào quyển sách do quư vị viết bị tiêu diệt trong thế gian này, chẳng c̣n một quyển nào, quư vị mới có thể thoát khỏi. Nếu thế gian này, hăy c̣n một quyển sách chưa mất, quư vị sẽ chẳng có cách nào thoát ĺa tội ấy, quư vị nói xem có đáng sợ lắm hay không? Những vị đại đức giảng kinh, thuyết pháp thời cổ chịu trách nhiệm, viết thành sách càng đáng ngại hơn. Các Ngài như thế nào? Các Ngài sợ nhân quả. Người hiện thời chẳng tin nhân quả. Nhân quả chẳng phải là nói “hễ tin bèn có, chẳng tin th́ không”, chẳng phải vậy! Không tin th́ nó vẫn có y hệt, phiền phức ở chỗ này! Chúng ta chưa khai ngộ, có dám giảng kinh hay không? Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ chưa khai ngộ có dám chú giải kinh hay không? Chúng ta đọc bản chú giải của cụ, chẳng phải là lời chú giải của chính cụ. Cụ đọc một trăm chín mươi ba loại kinh luận, tham khảo tài liệu, toàn là trích lục những lời chú giải, nên cụ có căn cứ. Chẳng phải là tôi sai. Quư vị nói tôi sai th́ là trong kinh luận của họ đă phạm sai lầm, chứ tôi chẳng phạm lỗi. Đó là ǵ? Nhằm thị hiện cho người trong thời đại này. Chúng tôi học giảng kinh, khi ấy, đă biết một chút đạo lư này, chẳng dám! Thầy khuyên dạy chúng tôi: “Nếu chờ đến khai ngộ rồi mới giảng kinh, chẳng biết đợi tới năm nào. Nếu suốt đời này, anh chẳng khai ngộ, tức là suốt đời này chẳng thể giảng kinh! Vậy là chẳng có ai giảng kinh, Phật pháp sẽ bị diệt trên thế giới này”. Giải quyết vấn đề này như thế nào? Do đó, thầy dạy chúng tôi. Chính bản thân thầy cũng khiêm hư. Thầy nói: “Không chỉ quư vị chẳng dám, mà chính tôi cũng chẳng dám. Nay chúng ta giảng kinh là giảng ǵ? Giảng chú giải!” Câu nói ấy đă cảnh tỉnh chúng tôi, chúng ta chọn lọc chú giải của cổ nhân, diễn dịch chú giải thành lời văn Bạch Thoại để nói, chắc chắn chẳng thể nói sai ư nghĩa. Chúng ta giảng theo cách như vậy, nếu nẩy sanh vấn đề, họ (những vị chú giải) chịu trách nhiệm, chúng ta chẳng lănh trách nhiệm. Do hiểu chỗ này, chúng tôi mới dám làm.   V́ thế, lúc mới học giảng kinh, tôi t́m [chú giải] của những vị lăo pháp sư trong hiện thời, tôi nói đến những bản chú giải bằng văn Bạch Thoại. Về sau, dần dần tương đối thâm nhập, mới t́m chú giải của cổ đại đức. Thầy c̣n dặn ḍ, ắt phải lấy chú giải của cổ đại đức làm chủ. V́ sao? Các Ngài đă thật sự khai ngộ. Thời cổ, chưa khai ngộ, chẳng ai dám viết lách. Hơn nữa, sách cổ gần như đều đă trải qua tra xét nghiêm ngặt, người tra xét là ai? Những vị cao tăng đại đức thuở ấy. Các Ngài tra duyệt, nhận định là chẳng có vấn đề rồi mới tấu tŕnh Hoàng Thượng. Hoàng Thượng phê chuẩn cho nhập tạng (đưa vào Đại Tạng Kinh). V́ thế, Đại Tạng Kinh đáng tin cậy nhất, v́ đă được kiểm tra nghiêm ngặt. Quư vị nói chú giải, vậy th́ bản chú giải ấy có trong Đại Tạng Kinh hay không? Hễ trong Đại Tạng Kinh mà có th́ [bản chú giải ấy] rất đáng tin cậy. Hiện thời chẳng có hoàng đế, đă đổi thành Dân Quốc. [Chánh quyền] Dân Quốc gạt chuyện này sang một bên, mặc cho nó tự sanh tự diệt. V́ thế, xă hội Dân Quốc động loạn to lớn so với thời đại đế vương trước kia, thật sự là có mối quan hệ nhân quả. V́ sao? Đế vương hộ pháp, đế vương học Phật, đế vương cung kính Tam Bảo, nên quốc thái dân an, Phật là phước điền lớn nhất của hết thảy chúng sanh. Do đó, người đại phú đại quư trong thế gian, quá nửa là đă gieo phước nơi Phật môn trong đời quá khứ, nay họ hưởng phước. Hưởng phước mà không biết gieo phước lần nữa, nên hưởng hết phước th́ làm như thế nào? Chẳng phải là lại xuất hiện vấn đề ư? Cổ nhân tin tưởng, kính trọng tổ tông, tín ngưỡng bậc thánh hiền. Hiện thời, tổ tông cũng chẳng kính, cũng chẳng ngó ngàng tới hiền nhân, tuyên bố Phật, Bồ Tát là mê tín. Xă hội hiện tại trở thành nông nỗi này, địa cầu lắm tai nạn ngần ấy, rốt cuộc là do nguyên nhân ǵ, người thâm nhập kinh tạng bèn hiểu rơ.

      Do vậy, thâm nhập kinh tạng th́ phải hiểu: Thâm nhập một bộ kinh, chẳng phải là thâm nhập mỗi bộ kinh, chẳng có ư nghĩa ấy. Chẳng phải là bảo quư vị đọc rất nhiều kinh luận, học rộng, nghe nhiều, chẳng phải vậy. Học rộng nghe nhiều vào lúc nào? Thật sự giáo hóa chúng sanh, đó là khi nào? Sau khi chính ḿnh đă minh tâm kiến tánh mới lại học rộng, nghe nhiều, nhất định phải hiểu rơ thứ tự. Tứ Hoằng Thệ Nguyện đă nói rơ thứ tự tu học ấy. Học Phật đầu tiên là phải phát Bồ Đề tâm, Bồ Đề tâm là ǵ? Tâm độ chúng sanh, chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Quư vị thấy trong lục đạo đông đảo chúng sanh đang khổ sở! Làm thế nào để giúp họ ĺa khổ được vui? Quư vị phải phát đại tâm ấy! Muốn giúp đỡ người khác, nhất định là phải thành tựu chính ḿnh trước! Chính ḿnh chưa thành tựu, làm sao giúp đỡ người khác cho được? Do đó, nguyện thứ nhất là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Nói theo sự tu học của chính ḿnh th́ đó là một động lực thúc đẩy quư vị phải thật sự làm. Muốn giúp đỡ chúng sanh, nhất định là quư vị phải thành tựu đức hạnh và học vấn của chính ḿnh. Đức hạnh thứ nhất là “phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn”, thành tựu đức hạnh. Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, mục đích là ǵ? Nhằm mục đích đoạn phiền năo. Quư vị thấy nhé: Đă đoạn Kiến Tư phiền năo, quư vị bèn thành Chánh Giác, chứng quả A La Hán. Đoạn Trần Sa phiền năo, quư vị là Bồ Tát, chứng đắc Chánh Đẳng Chánh Giác. Phá vô thỉ vô minh, quư vị thành Phật, chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Những chuyện này đều phải cậy vào thâm nhập một môn, phải cậy vào đại định rất sâu. Từ tu Định trở về tự tánh vốn định. Sau khi triệt ngộ, tự tánh vốn định hiện tiền, được gọi “Tánh Tu bất nhị” (Tánh và Tu chẳng hai). Chưa kiến tánh bèn tu Định, đó là “tu công” (công phu tu hành). Sau khi đă kiến tánh, bèn là tánh định. Tu Định nhằm mục đích khai phát tánh định. Đă đạt công phu ấy rồi mới học rộng nghe nhiều: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Hiểu rơ thứ tự này, nếu hai điều trước vẫn chưa có, mà toan pháp môn vô lượng thệ nguyện học, học suốt một đời, học cũng khá lắm, rất dụng công, sẽ học được ǵ? Phật học, tức là kiến thức thông thường về Phật học, người hiện thời gọi là “tri thức”, chẳng phải là trí huệ, sai biệt quá ư to lớn! Người hiện thời có ai hiểu trí huệ? Toàn là một mực noi theo hướng tri thức, đi theo con đường ấy. Trí huệ và tri thức hoàn toàn khác nhau! Trí huệ có thể giải quyết vấn đề, tri thức chẳng được! Trí huệ có thể quán thông hết thảy, có thể hoàn toàn quán thông hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. V́ vậy, [đi theo con đường tri thức] chính là đă nhận lầm toàn bộ phương hướng và mục tiêu, hy vọng các đồng học chúng ta đều có thể hiểu điều này.

      Phật luôn mong mỏi chúng ta đi theo con đường tắt, hy vọng chúng ta có thể thành tựu rất nhanh chóng. Do vậy, học Phật th́ đầu tiên là chúng ta phải tự ḿnh nghiêm túc kiểm điểm, phản tỉnh xem chính ḿnh là căn tánh ǵ, chúng ta chọn lựa pháp môn nào, điều này rất trọng yếu. Chọn đúng pháp môn, đời này quyết định thành tựu. Chọn sai pháp môn, đời này rất khó thành tựu, chẳng có kẻ nào thành tựu do may mắn cả! Trong thiện căn, nói tới những điều quan trọng nhất, sẽ là ngộ tánh, công phu định lực, thành kính. Ấn Quang đại sư đă nói rất hay: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Chúng ta đối với chính ḿnh có thành kính hay chăng? Đối với khóa tŕnh tu học của chúng ta, đối với các kinh luận, có ḷng tin chân thành hay không? Đối với thầy, thầy là Thích Ca Mâu Ni Phật, có ḷng tin chân thành hay không? Đối với các vị tổ sư truyền thừa nhiều thế hệ đều phải có tín tâm chân thành th́ mới có thể thành tựu. V́ lẽ đó, người học đông đảo ngần ấy, kẻ thành tựu ít dường ấy, quư vị phải hiểu đạo lư này, biết đó là chuyện tự nhiên, họ chẳng trọn đủ những điều kiện ấy. Thích Ca Mâu Ni Phật là một vị thầy gương mẫu, tôn giả A Nan là một người học tṛ ngoan.

      Trong những phần trước, chúng ta đă học xong phần Chứng Tín Tự, hôm nay là Phát Khởi Tự, tức “đại giáo duyên khởi đệ tam”. Trước hết, chúng ta đọc kinh văn một lượt, trong kinh văn có rất nhiều đoạn ngắn, Chúng ta xem từng đoạn một.

 

      (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn, oai quang hách dịch, như dung kim tụ, hựu như minh kính, ảnh sướng biểu lư, hiện đại quang minh, sổ thiên bách biến.

      () 尊。威 奕。如 聚。又 鏡。影 裡。現 明。數 變。

      (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn oai quang rạng rỡ như khối vàng nung, lại cũng như gương sáng trong ngoài sáng tỏ, hiện quang minh lớn, biến hiện ra mấy trăm ngàn thứ).

 

      Đoạn này “quang thụy phát khởi” (dùng quang minh và tướng lành để phát khởi). Đức Phật phóng quang, hiện thụy tướng, dùng phương pháp này khiến cho đại chúng có cảm xúc hy hữu. Lại xem phần kế tiếp:

 

      (Kinh) Tôn giả A Nan tức tự tư duy: “Kim nhật, Thế Tôn sắc thân chư căn, duyệt dự thanh tịnh, quang nhan nguy nguy, bảo sát trang nghiêm. Tùng tích dĩ lai, sở vị tằng kiến”, hỷ đắc chiêm ngưỡng, sanh hy hữu tâm.

() 尊 者 阿 難。即 自 思 惟。今 日 世 尊 色 身 諸 根。悅 豫 清 淨。光 顏 巍 巍。寶 剎 莊 嚴。從 昔 以 來。所 未 曾 見。喜 得 瞻 仰。生 希 有 心。

      (Kinh: Tôn giả A Nan liền tự suy nghĩ: “Hôm nay, đức Thế Tôn sắc thân, các căn vui sướng thanh tịnh, quang nhan ṿi vọi, cơi báu trang nghiêm, từ xưa đến nay, ta chưa từng thấy”, mừng rằng ḿnh được chiêm ngưỡng, sanh tâm hy hữu).

 

      Ngài A Nan đại biểu cho đại chúng. Ngài trông thấy thụy tướng của Phật, trong tâm cảm động. Thụy tướng ấy quá hy hữu. Ngài A Nan là thị giả của đức Phật, chưa từng thấy tướng mạo trang nghiêm của đức Phật như ngày hôm nay, trong tâm hoan hỷ. “Duyệt dự thanh tịnh” là tâm hoan hỷ hy hữu khôn sánh do trông thấy [thụy tướng ấy]. Kế đó là…

 

      (Kinh) Tức tùng ṭa khởi, thiên đản hữu kiên, trường quỵ hiệp chưởng.

() 即 從 座 起。偏 袒 右 肩。長 跪 合 掌。

      (Kinh: Liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo bên phải, quỳ thẳng, chắp tay).

 

      Đây là hành lễ. Trước hết, hướng về thầy hành lễ rồi mới thỉnh pháp.

 

      (Kinh) Nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn, kim nhật nhập đại tịch định, trụ kỳ đặc pháp, trụ chư Phật sở trụ đạo sư chi hạnh, tối thắng chi đạo”.

() 而 白 佛 言。世 尊 今 日 入 大 寂 定。住 奇 特 法。住 諸 佛 所 住 導 師 之 行。最 勝 之 道。

(Kinh: Mà bạch Phật rằng: “Đức Thế Tôn ngày nay nhập đại tịch định, trụ pháp kỳ đặc, trụ hạnh đạo sư của chư Phật trụ, là đạo tối thắng”).

 

      Đây chính là điều ngài A Nan thấy và cảm nhận, nên thưa tŕnh, mà cũng là đại diện cho đại chúng trong pháp hội [thưa tŕnh]. “Tối thắng chi đạo”, đạo tối thắng là ǵ? Dưới đây sẽ cho biết.

 

      (Kinh) Khứ lai hiện tại Phật Phật tương niệm. Vị niệm quá khứ, vị lai chư Phật da? Vị niệm hiện tại tha phương chư Phật da? Hà cố oai thần hiển diệu, quang thụy thù diệu năi nhĩ. Nguyện vị tuyên thuyết.

() 去 來 現 在 佛 佛 相 念。為 念 過 去 未 來 諸 佛 耶。為 念 現 在 他 方 諸 佛 耶。何 故 威 神 顯 耀。光 瑞 殊 妙 乃 爾。願 為 宣 說。

      (Kinh: Quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật nghĩ đến nhau. Ngài nghĩ đến quá khứ vị lai chư Phật hay chăng? Ngài nghĩ đến chư Phật hiện tại ở phương khác hay chăng? V́ sao Ngài lại oai thần sáng đẹp, tướng lành trong quang minh tuyệt vời đến mức như thế? Xin tuyên nói cho).

      Theo Phật đă nhiều năm, hằng ngày nghe Phật giảng kinh, thuyết pháp, huân tập cũng khá đáng kể, nên biết pháp thù thắng khôn sánh trong hết thảy các pháp là Niệm Phật, có phải là hôm nay đức Thế Tôn đang niệm Phật? Niệm Phật th́ là niệm quá khứ Phật, hay niệm vị lai Phật, hay là niệm chư Phật trong hiện tại ở các thế giới phương khác? V́ sao hôm nay thị hiện “oai thần hiển diệu, quang thụy thù diệu năi nhĩ” (oai thần sáng đẹp, tướng lành trong quang minh tuyệt vời đến mức như thế), trước nay chưa hề thấy dáng vẻ như thế này? Thật ra, đức Thế Tôn đang niệm A Di Đà Phật, muốn tuyên thuyết và giới thiệu pháp môn nhiếp thọ chúng sanh của A Di Đà Phật với mọi người. Một đoạn này bao hàm những ư nghĩa ǵ? Pháp môn này là pháp môn thù thắng khôn sánh, [nên để giảng nói pháp môn ấy, đức Phật] hiện thụy tướng hy hữu, ngay cả ngài A Nan cũng cảm thấy hết sức đặc biệt, lạ lùng. “Trụ kỳ đặc pháp” (trụ trong pháp đặc biệt, lạ lùng), hết sức hiếm lạ, hết sức đặc thù, đều nhằm biểu thị pháp môn này. Nay chúng ta hiểu rất rơ, rất minh bạch, thời Mạt Pháp kể từ đây về sau hăy c̣n hơn tám ngàn năm, chỉ có bộ kinh này là có thể giúp đỡ chúng sanh thành tựu trong thời Mạt Pháp. Mọi người có thể tự ḿnh thí nghiệm các pháp môn khác, cách thí nghiệm như thế nào? Quư vị chiếu theo pháp môn ấy để tu, coi thử phiền năo tập khí có thể đoạn được hay không? Chẳng cần phiền năo tập khí quá sâu, rơ rệt, nông cạn nhất là năm thứ Kiến Hoặc, tức Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến, quư vị hăy thử [đoạn trừ] những phiền năo ấy. V́ sao? Nếu đă đoạn hết những thứ ấy, quư vị liền chứng quả Tu Đà Hoàn. Trong Tiểu Thừa, đó là Sơ Quả, trong Đại Thừa, xét theo Thập Tín Vị Bồ Tát trong kinh Hoa Nghiêm, sẽ là Sơ Tín. Quư vị hăy thử xem, dùng thời gian trọn hết một đời, xem quư vị có thể làm được hay không. Thưa cùng quư vị, Sơ Quả th́ hai thứ thần thông sẽ hiện tiền, [tức là] Thiên Nhăn hiện tiền, Thiên Nhĩ hiện tiền, quư vị hăy thử xem. Nếu không được, hăy vội vă quay đầu th́ hăy c̣n kịp. Nếu cứ một mực mê chấp, sẽ lầm lỡ một đời này, trong tương lai chẳng biết lại gặp pháp môn này trong đời nào, kiếp nào! Thật đấy, chẳng giả đâu! Do đó, quư vị thấy [kinh này chép] phóng quang minh, hiện tướng lành, hăy so sánh với các kinh khác, [sẽ thấy] trong các kinh khác chẳng có cách nói này! Từng câu từng chữ trong kinh giáo đều bao hàm vô lượng nghĩa, chớ nên khinh dễ đọc lướt qua!

      Chúng ta hăy xem chú giải của lăo cư sĩ: “Thích Tôn tương dục diễn thuyết vô thượng thù thắng Tịnh Độ pháp môn, cố hiện thụy, phóng quang” (đức Thích Ca sắp diễn nói pháp môn Tịnh Độ vô thượng thù thắng, nên hiện tướng lành, tỏa quang minh), thị hiện tướng lành, phóng quang để dẫn khởi. Nay chúng ta nói “hưng khởi” (興起) là dẫn khởi (引起), nhằm dẫn dụ ngài A Nan nêu câu hỏi. “Tịnh linh văn giả sanh hy hữu tưởng” (và khiến cho người nghe sanh ư tưởng hy hữu), người tham dự hội này cũng rất đặc thù, đặc biệt đông đảo. “Sanh nan tao tưởng” (sanh ư tưởng khó gặp gỡ), pháp môn này rất khó gặp gỡ. “Y giáo phụng hành, cầu sanh Tịnh Độ”, thành tựu trong một đời này. Sự thành tựu này là bảo đảm, là chân thật. Trên thực tế, chúng ta chưa đoạn một phẩm phiền năo nào, công phu niệm Phật chỉ là chế phục phiền năo. Đối với bất cứ pháp môn nào [ngoài Tịnh Độ], chế phục phiền năo là chưa được, chẳng thể thành tựu, phải đoạn phiền năo! Đối với pháp môn này, hễ chế phục phiền năo, bèn có thể văng sanh. Nếu đă đoạn phiền năo văng sanh, tối thiểu là [sanh trong] cơi Phương Tiện Hữu Dư, có công phu Tiểu Thừa. Trong giáo pháp Đại Thừa, nói theo kinh Hoa Nghiêm, quư vị có công phu của địa vị Thập Tín, từ Sơ Tín đến Thập Tín đều sanh trong cơi Phương Tiện Hữu Dư. Trong cơi Phương Tiện Hữu Dư có ba bậc, chín phẩm. Người chẳng đoạn Kiến Tư phiền năo, thông thường đều sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Địa cầu này là cơi Phàm Thánh Đồng Cư, [đây là cơi Đồng Cư của] Thích Ca Mâu Ni Phật, có lục đạo luân hồi. Cơi Đồng Cư trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chỉ có hai đường, chẳng có lục đạo, ba bậc chín phẩm trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư là nhân thiên đạo. Thế giới Cực Lạc chẳng có súc sanh, chẳng có ngạ quỷ, chẳng có địa ngục.

      Lại c̣n hết sức kỳ đặc, đúng là “trụ kỳ đặc pháp”, kỳ đặc là ǵ? Người văng sanh cơi Phàm Thánh Đồng Cư, thuộc phẩm thấp nhất, tức là người văng sanh hạ hạ phẩm, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng là A Duy Việt Trí Bồ Tát. A Duy Việt Trí Bồ Tát th́ địa vị thấp nhất sẽ là Sơ Trụ Bồ Tát trong kinh Hoa Nghiêm, bằng với ǵ? Bằng với người tu hành minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật trong thế giới này, bằng với công phu ấy. Trong hết thảy các kinh do đức Thế Tôn đă nói trong bốn mươi chín năm, chẳng có lời này, chỉ riêng kinh này có, đó là pháp kỳ đặc. Nói cách khác, người hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Đồng Cư bèn thành Phật. Có phải là người ấy thật sự thành Phật? Chẳng thật. V́ lẽ đó, Ngẫu Ích đại sư đă nói rất hay: Những người văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, nếu quư vị nói người ấy đă thành Phật, th́ Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh một phẩm chẳng đoạn, họ là phàm phu chánh cống! Nếu quư vị nói họ là phàm phu, th́ trí huệ, thần thông, đạo lực của họ bằng với A Duy Việt Trí Bồ Tát, kỳ diệu thay! Trong các cơi Phật khắp mười phương, chẳng t́m thấy điều này, chỉ riêng thế giới Cực Lạc là có, nên mới gọi là hiếm hoi, lạ lùng! Đối với bọn chúng ta, điều này có sức hấp dẫn rất lớn, v́ sao? Phiền năo tập khí rất nặng, biết rất khó, gặp gỡ pháp môn này th́ chúng ta c̣n được cứu, vui sướng lắm! Nhưng quư vị thật sự mong thành tựu trong một đời, thành tựu trí huệ, đức năng, tướng hảo, th́ đối với những điều kinh dạy mà giảm bớt một phần [chẳng thực hiện] cũng không được! Kinh dạy chúng ta tu như thế nào? Phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm A Di Đà Phật. Quư vị xen tạp những thứ khác sẽ chẳng được, công phu sẽ bị phá hủy. Ấn Quang đại sư khuyên dạy chúng ta, khuyên người niệm Phật, tốt nhất là trong thời khóa sáng tối hăy niệm thêm một ngàn câu danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, như vậy th́ có tính là xen tạp hay không? Chẳng tính! V́ sao? Một ngàn câu Phật hiệu ấy chẳng v́ chính ḿnh, mà v́ chúng sanh khổ nạn trong thế gian này, v́ bọn họ mà niệm, đó là tâm từ bi. Chẳng phải là cầu Quán Thế Âm Bồ Tát gia hộ cho ta, chẳng phải vậy, mà là cầu Quán Âm Bồ Tát gia hộ chúng sanh khổ nạn trên địa cầu này, và cũng gia hộ [diệt trừ] các tai biến hiện thời trên địa cầu, hy vọng địa cầu khôi phục b́nh thường, chẳng nên có các tai nạn nữa, đặc biệt v́ họ mà niệm. Do đó, quư vị vẫn là thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, phù hợp với “một mực chuyên niệm” như trong kinh đă dạy.

      Chúng ta tiếp tục xem phần kế tiếp: “Án viên đốn chư kinh, cụ thuyết Bổn Sư Thích Tôn phóng quang chi tướng, kim kinh diệc nhiên” (Xét ra, các kinh Viên Đốn đều có nói tướng Bổn Sư Thích Tôn phóng quang, nay kinh này cũng như vậy). Đức Phật giảng những kinh ấy, trong các kinh Đại Thừa gần như đều có phóng quang. Phóng quang cũng nhằm biểu thị pháp. Chúng ta hăy xem đoạn kinh văn này được nói [như thế nào] trong năm bản dịch gốc của kinh Vô Lượng Thọ: “Hán dịch viết: Ư thời Phật tọa, tư niệm chánh đạo, diện hữu ngũ sắc quang, sổ thiên bách biến, quang thậm đại minh. Hiền giả A Nan, tức tùng ṭa khởi, cánh chánh y phục, khể thủ Phật túc” (Khi ấy, đức Phật đang ngồi, nghĩ đến chánh đạo, mặt Ngài có ánh sáng năm màu biến hiện mấy trăm ngàn thứ. Ánh sáng hết sức sáng rực. Hiền giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục, dập đầu lễ dưới chân Phật). Ngài A Nan sau khi sanh tâm hy hữu, từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn quần áo, rồi mới hướng về Phật hành lễ. “Tiền bạch Phật ngôn: - Kim Phật diện mục quang sắc, hà dĩ thời thời cánh biến, minh năi nhĩ hồ? Kim Phật diện mục quang tinh sổ bách thiên sắc, thượng hạ minh triệt, hảo năi như thị? Ngă thị Phật dĩ lai, vị tằng kiến Phật thân thể quang diệu, nguy nguy trùng minh năi nhĩ” (Bạch trước đức Phật rằng: “Nay vẻ mặt của Phật rạng rỡ, cớ sao mỗi lúc lại biến đổi sáng rực đến thế? Nay vẻ mặt đức Phật rạng ngời tinh thuần có hơn trăm ngàn sắc, trên dưới sáng tỏ, đẹp đẽ đến thế. Con từ khi hầu Phật đến nay, chưa từng thấy thân thể Phật rực sáng, sáng vằng vặc bội phần đến như thế ấy”). Kinh văn trong bản Hán dịch, tức Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh, đă miêu tả như trên đây, nói tỉ mỉ hơn phần kinh văn [trong bản hội tập] ở đây. Ngài A Nan trông thấy quang minh năm màu, lại c̣n biến hiện mấy trăm ngàn thứ, quang minh rất lớn. Trong quá khứ, ngài A Nan chưa hề thấy chuyện này, lần đầu tiên thấy thân tướng của Phật tốt đẹp dường ấy! “Ngă vị tằng kiến Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác” (con chưa từng thấy đấng Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác), Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác là từ ngữ ngài A Nan dùng để ca ngợi đức Phật. “Quang minh oai thần, hữu như kim nhật” (quang minh oai thần giống như hôm nay), “Ngô dịch đồng chi, duy văn tự sảo giản” (Bản Ngô dịch cũng ghi giống như vậy, chỉ có điều văn tự hơi đơn giản hơn), c̣n những bản khác th́ “tắc ngữ nhi vị tường” (các bản dịch khác có đề cập đến điểm này, nhưng không ghi tỉ mỉ).

      “Ngụy dịch trung lưỡng độ vân: ‘Quang nhan nguy nguy’, hựu vân: Oai thần quang quang” (Bản Ngụy dịch hai lượt ghi: “Vẻ mặt rực sáng ṿi vọi”, lại c̣n ghi: “Oai thần rạng rỡ”). Bản Ngụy dịch chính là bản dịch của ngài Khang Tăng Khải được lưu hành rộng nhất. “Đường dịch vân: Oai quang hách dịch, như dung kim tụ, hựu như minh kính, ngưng chiếu quang huy” (Oai quang rạng rỡ như khối vàng nung, lại như gương sáng tĩnh lặng, tỏa chiếu sáng ngời). Ở đây, [cụ Hoàng đă trích dẫn] để cho quư vị thấy các bản dịch gốc khác nhau, và cũng có thể khiến cho chúng ta tham chiếu bản hội tập của Hạ lăo cư sĩ, [sẽ thấy] từng câu, từng chữ trong bản hội tập của cụ đều có căn cứ, chẳng phải là viết tùy tiện. Bản Tống dịch ghi là: “Diện sắc viên măn, bảo sát trang nghiêm” (vẻ mặt viên măn, cơi báu trang nghiêm). V́ thế, “ngũ dịch hợp tham”, [nghĩa là] gộp lại cả năm bản để xem, “tiện tri Hán Ngô lưỡng dịch tối tường, dư dịch năi kỳ giản lược. Duy Tống dịch trung bảo sát trang nghiêm” (liền biết hai bản dịch đời Hán và đời Ngô tường tận nhất, các bản dịch khác chỉ nói giản lược. Chỉ có bản Tống dịch có câu “bảo sát trang nghiêm”), trong các bản khác chẳng có, [chỉ riêng bản này] có một câu như thế. V́ thế, câu này cũng được chép trong bản hiện tại (bản hội tập), có câu “bảo sát trang nghiêm”. “Hiển quang trung hiện sát chi nghĩa” (hiển thị ư nghĩa “trong quang minh hiện ra cơi nước”). Trong các bản khác, chẳng có câu này, câu này [có nghĩa] là trong Phật quang thấy mười phương các cơi Phật. “Khả bổ cổ dịch chi bất túc, do thị diệc khả kiến hội tập chư dịch chi tất yếu” ([Câu này] có thể dùng để bổ túc chỗ thiếu sót của các bản dịch cũ. Do điểm này, cũng có thể thấy việc hội tập các bản dịch là điều tất yếu). V́ thế, hiện nay chúng ta dùng bản hội tập, giống như năm bản dịch gốc đều đọc trọn hết.

“Hựu cổ chú kinh gia, đa vị Bổn Sư thuyết thử kinh thời vị tằng phóng quang, cái vị tường khảo Hán Ngô cổ dịch chi cố nhĩ” (Hơn nữa, đa số các nhà chú thích kinh thời xưa cho rằng khi đức Bổn Sư nói kinh này chưa từng phóng quang. Đó là do họ chưa đọc kỹ tường tận các bản dịch cổ đời Ngô và Hán vậy). Trong năm bản dịch, có mấy bản tỉnh lược chuyện phóng quang, nhưng cũng rất khó nói, v́ đức Thế Tôn đă nhiều lần tuyên thuyết bộ kinh này, chẳng phải chỉ giảng một lần. Xét theo nội dung của năm bản dịch gốc, tối thiểu đức Phật đă giảng ba lần; nhưng tại Trung Hoa, kinh Vô Lượng Thọ có mười hai bản dịch, từ mục lục của Đại Tạng Kinh có thể thấy bảy bản trong số đó bị thất truyền. Đối với bảy bản ấy, có thể là c̣n có những sai biệt rất lớn so với những bản chúng ta trông thấy, không chỉ là tuyên giảng ba lần. Điều này rất đặc thù, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh trước nay chưa hề trùng lặp, chỉ có bộ kinh này được trùng lặp nhiều lần, điều này cũng nhằm tuyên nói pháp môn này hết sức thù thắng, hết sức trọng yếu. Trong tương lai cho đến khi Phật pháp diệt, pháp vận của đức Thế Tôn là một vạn hai ngàn năm, khi kinh pháp đă diệt, kinh Vô Lượng Thọ c̣n lại trên cơi đời một trăm năm, bị diệt mất cuối cùng. Những tin tức này đều đáng để cho chúng ta tham khảo, tăng trưởng tín tâm và nguyện lực của chúng ta.

      Kế đó, cụ Hoàng mới giải thích từng câu. Trước hết là giải thích chữ Thế Tôn, “chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật. Tịnh Ảnh Sớ viết: Phật cụ chúng đức, vị thế tôn trọng, cố hiệu Thế Tôn” (chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật. Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Đức Phật đầy đủ các đức, do được cơi đời tôn trọng, nên hiệu là Thế Tôn”). Phật đoạn sạch vô minh phiền năo tập khí, kinh Hoa Nghiêm nói Phật thuộc địa vị Diệu Giác, đă chứng đắc Diệu Giác, trở về tự tánh viên măn. Đạt đến Diệu Giác, chúng ta hiểu cơi Thật Báo Trang Nghiêm chẳng tồn tại. V́ sao cơi Thật Báo tồn tại? Do vô thỉ vô minh phiền năo tập khí chưa đoạn sạch, nhưng tập khí ấy chẳng trở ngại sự, chẳng trở ngại quư vị xứng tánh phát huy trong mười phương thế giới, phát huy trí huệ và đức tướng trong tự tánh của quư vị để ứng với hết thảy chúng sanh. Hễ chúng sanh có cảm, Ngài bèn có ứng. V́ thế, nói thật ra, Bồ Tát ở trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm chẳng khác Thường Tịch Quang, vận dụng trí huệ, thần thông, đạo lực b́nh đẳng, chẳng có sai biệt. Điểm sai biệt là một đằng đă đoạn tập khí, một đằng chưa đoạn. Chưa đoạn th́ ở trong cơi Thật Báo, đoạn hết th́ ở trong cơi Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Do Thường Tịch Quang tuy chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, nên lục căn chẳng duyên được, nhưng nó tồn tại, khởi tác dụng, chẳng phải là không khởi tác dụng. Hiện thời, chúng ta nghe các nhà khoa học báo cáo, họ cảm thấy rất lạ lùng. Đối với vũ trụ, tức là nói đến toàn bộ không gian, vũ trụ vĩ mô, họ nói là dùng những dụng cụ khoa học th́ có thể quan sát đại khái mười phần trăm của toàn thể vũ trụ. Nói cách khác, c̣n có chín mươi phần trăm vũ trụ không thấy, họ cảm thấy rất kỳ quái, [cớ sao] chẳng thấy được! Họ nói điều này, trong tâm chúng tôi liền hiểu rơ: V́ sao chẳng thấy? Đă trở về Thường Tịch Quang. Trở về Thường Tịch Quang th́ lục căn chẳng có cách nào tiếp xúc, chẳng phải là nó không tồn tại. Nó tồn tại, nhưng đă trở về Thường Tịch Quang. Do đó, sự phát hiện của khoa học giúp cho chúng ta tiến thêm một bước trong việc lư giải kinh điển, càng biết những điều ấy là chân thật, chẳng giả.

      “Phật cụ chúng đức” (Phật đầy đủ các đức), Tánh Đức viên măn, “vị thế tôn trọng” (được thế gian tôn trọng). “Thế” ở đây là mười pháp giới, tức lục phàm tứ thánh, chẳng có pháp giới nào không tôn trọng Phật, nên hiệu là Thế Tôn. Kính Phật, lễ Phật, niệm Phật là phước huệ song tu. Chúng ta tu hằng ngày, dường như phước huệ chẳng tăng trưởng, có phải là Phật chẳng linh? Chẳng phải vậy! Phước huệ chẳng tăng trưởng là v́ quư vị chẳng tu đúng pháp. Cớ sao chẳng tu đúng pháp? Quư vị chẳng có tâm thành kính! Vẫn là như pháp sư Ấn Quang đă nói rất hay: Quư vị có mười phần thành kính sẽ được mười phần phước huệ, quư vị có một phần sẽ được một phần phước huệ. Vẫn phải đánh dấu hỏi trong ấy, phước huệ chẳng thể hiện tiền, đạo lư là như thế đó. Thế hệ hiện thời đối với Phật pháp, đối với Thích Ca Mâu Ni Phật hoặc hết thảy chư Phật mà thật sự có thể sanh khởi ḷng thành kính rất ư là khó. V́ sao? V́ từ bé chúng ta đă tiếp nhận nền giáo dục thông thường, luôn nói tôn giáo là mê tín, tôn giáo gạt người. Quư vị thấy nhé, những điều này đă mọc rễ trong tâm chúng ta, thâm căn cố đế, nay tiếp xúc [Phật pháp], muốn gột sạch những quan niệm cũ trước đây, tái lập tâm chân thành mới mẻ, há dễ dàng ư? Người thời cổ niệm Phật, lễ Phật, xưng tán Phật, v́ sao có hiệu quả to lớn như vậy? Nếu chẳng có hiệu quả, làm sao họ có thể tin tưởng được? V́ sao trước kia có hiệu quả rơ rệt như vậy? Chẳng có ǵ khác! Từ bé, họ đă được tiếp nhận sự giáo dục hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, tôn sư trọng đạo. V́ lẽ đó, Phật pháp truyền đến Trung Hoa, Phật là thầy, ư niệm tôn sư trọng đạo bèn nẩy sanh rất tự nhiên, cho nên hiệu quả rất rơ rệt. Hiện thời, học Phật thật khó, vô cùng chẳng dễ dàng, chẳng thể không nhấn mạnh thiện căn, phước đức, nhân duyên. Quư vị thật sự có thiện căn, thật sự có phước báo, hễ nói ra bèn thật sự tin tưởng, thật sự có thể sanh khởi tâm kiền thành, cung kính, đạt được phước huệ, những điều này đều là sự thật ngàn vạn phần xác đáng.   

Tiếp đó lại nói: “Phật thị thế gian cực tôn, cố xưng Thế Tôn” (Phật là đấng tôn quư nhất trong thế gian, nên gọi là Thế Tôn). Đấng tôn quư nhất trong thế gian ai biết? Bồ Tát biết, A La Hán biết, thánh hiền thế gian cũng có thể biết. V́ sao nói Phật là cực tôn? Ngài đă chứng đắc viên măn tự tánh, đạo lư là như thế đó. Chúng ta khế nhập Hoa Nghiêm đôi chút, bèn hiểu đạo lư này. Trong những người tu hành Bồ Đề đạo, hoặc có thể gọi là “đạo thành Phật”, có các đẳng cấp, tức là năm mươi hai đẳng cấp, đức Phật thuộc giai vị thứ năm mươi hai, tôn quư cùng cực. So với năm mươi mốt địa vị, Ngài c̣n ở trên Đẳng Giác Bồ Tát, Đẳng Giác Bồ Tát được gọi là tôn quư, Phật c̣n cao hơn Đẳng Giác, nên gọi là “cực tôn”. Từ Đẳng Giác trở xuống, chẳng có ai không tôn trọng Phật. Thông thường [chữ Thế Tôn được liệt kê] trong mười hiệu, phẩm tiếp theo sẽ giảng chuyện này, giáo pháp Đại Thừa cũng thường nói, [do Phật] trọn đủ mười hiệu nên gọi là Thế Tôn. Trong Phật pháp, có một chuyện vô cùng tuyệt diệu: Phật chẳng phải là độc tôn, “đấng cực tôn quư trong thế gian chỉ là một ḿnh ta”, chẳng phải vậy. [Nếu độc tôn] th́ chẳng phải là Phật pháp. Phật đă nói như thế nào? Đối với địa vị cực tôn quư trong thế gian, quư vị cũng có phần! Ai nấy đều như vậy, chẳng phải là một ḿnh Phật riêng có! Quư vị có thể đoạn sạch tập khí vô minh phiền năo từ vô thỉ, chẳng phải là quư vị trở thành cực tôn ư? Điều này khác với các tôn giáo. Trong các tôn giáo, thần (Chúa, Thượng Đế, Allah) là cực tôn, bất cứ ai cũng chẳng thể sánh bằng thần, [trong Phật giáo] chẳng có lẽ ấy! Phật giáo là ai nấy đều là Phật, những vị đă thành Phật đều khẳng định “hết thảy chúng sanh vốn sẵn là Phật” .

      Do đó, hiện thời nói dân chủ, tự do, cởi mở, [những điều đó] hoàn toàn thuộc về Đại Thừa Phật pháp. Dân chủ, tự do, cởi mở chẳng dễ dàng, chúng ta hăy quan sát cẩn thận. Thế giới Hoa Tạng dân chủ, tự do, rộng mở. Thế giới Cực Lạc dân chủ, tự do, rộng mở. Dân chủ, tự do, cởi mở, nhân dân phải như thế nào th́ mới ḥng thật sự hưởng thụ lợi ích chân thật của dân chủ, tự do, cởi mở? Ai nấy đều minh tâm kiến tánh, quư vị sẽ đạt lợi ích. Nếu đều là mê hoặc, điên đảo th́ dân chủ, tự do, cởi mở sẽ có rất nhiều vấn đề, chưa chắc đă là một chuyện tốt đẹp. Cổ nhân nói tới chế độ, hiện thời nói là chế độ, người thuở trước gọi [chế độ] là “pháp”. Pháp là căn cứ quan trọng để quản trị quốc gia, nhưng pháp chẳng sống động, mà chết cứng. Nếu người tốt vận dụng pháp, pháp ấy là tốt đẹp. Nếu gặp kẻ bất hảo vận dụng pháp, vận dụng pháp tốt nhất để tự tư tự lợi th́ đối với nhân dân sẽ là hữu hại vô lợi, mà đối với chính ḿnh là hữu lợi vô hại, biến thành t́nh trạng như vậy. V́ thế, cổ nhân nói đến đạo cai trị th́ trong đạo cai trị, nhân tài là cội nguồn, phải xét xem pháp được vận dụng bởi người nào. Nói như vậy rất có lư. Do đó, quy về cội nguồn th́ chính là giáo dục. Người dân trong nước đều tiếp nhận sự giáo dục của thánh hiền về luân lư, đạo đức, nhân quả; trong tuyển cử, sẽ bầu ra người tốt thật sự. Nếu chẳng có chuẩn mực ấy, lá phiếu có thể mua được, giống như buôn bán, chuyện tuyển cử giống như buôn bán: Mua lá phiếu, mua cho đến khi chính ḿnh có thể đắc cử, nhất định sẽ là quơ về một vốn vạn lợi! Ai thua thiệt? Dân chúng bị thua thiệt! V́ thế, chế độ dân chủ [phải được thực hiện] ở chỗ nào? Trước hết, thực hiện giáo dục cho tốt th́ chế độ dân chủ sẽ nẩy sanh tác dụng. Chẳng thực hiện giáo dục tốt đẹp, chưa chắc dân chủ đă là chuyện tốt đẹp.

      Cổ nhân nói đúng lắm, pháp tùy thuộc kẻ nào sử dụng. Chế độ chẳng tốt đẹp, nhưng con người tốt đẹp th́ vẫn có thể làm ra chuyện tốt. Pháp tốt nhất, vô cùng nghiêm mật, nhưng con người chẳng tốt, sẽ là một mực làm chuyện xấu, cổ nhân nói như vậy. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Chẳng nghe lời cổ nhân, bị thua thiệt trước mắt”, lời cổ nhân có đạo lư to lớn trong ấy. V́ thế, Trung Hoa mấy ngàn năm bền vững, theo chế độ đế chế, Trung Hoa có lúc nào là dân chủ, cởi mở hay chăng? Có! Chính là thời thịnh trị đại đồng, [điều đó] lại c̣n được thực hiện tại Trung Hoa. Khổng Tử khẳng định Trung Hoa vào thời đại Nghiêu, Thuấn, Vũ là thời thịnh trị đại đồng. Vua Vũ chẳng có tâm riêng tư, truyền ngôi cho con. V́ sao? Con trai ông ta quá tốt đẹp, mọi người đều đề cử người ấy. Nào ngờ truyền cho con, sau đấy, con ông ta lại truyền ngôi cho con ḿnh, biến thành độc chiếm thiên hạ. Khi vua Vũ truyền ngôi cho Hạ Khải[6], chẳng có tâm ấy! Do vậy, từ thời Hạ Khải trở về sau, chẳng c̣n là thời đại đồng thịnh trị nữa, mà biến thành thời Tiểu Khang. V́ thế, Khổng Tử nói: Từ sau thời Hạ Khải, là các triều đại Thang (Thương Thang[7]) và Châu, Khổng Tử sanh vào thời Xuân Thu nhà Châu, Ngài sanh vào thuở đó, gọi thời đó là đời loạn. Trước thời Ngài, phải là trong khoảng thời gian một ngàn năm, Trung Hoa thuộc vào thời đại Tiểu Khang. Xuân Thu Chiến Quốc là đời loạn. Trong tâm tưởng, [Khổng Tử] thường hoài niệm thời đại đồng thịnh trị, cũng thường nghĩ đến thời Tiểu Khang. Như vậy th́ chúng ta thấy qua kinh điển, đức Thế Tôn đă giới thiệu tỉ mỉ nhất không ǵ bằng thế giới Hoa Tạng và Tây Phương Cực Lạc thế giới, đó là thời đại đồng thịnh trị, ai nấy đều ngưỡng vọng. Văng sanh thế giới Cực Lạc chính là tiến nhập cơi đời đại đồng!

      Đối với câu “oai quang hách dịch”, [sách Chú Giải] đă giới thiệu chữ Oai [như sau]: “Oai giả, hữu uy khả úy vị chi Oai” (Oai () là có uy đáng sợ, nên gọi là Oai). Chúng ta thường nói là “oai nghiêm”. Đức Phật có oai nghiêm, ở đây [chữ Oai] chỉ “oai thần”, thần thông diệu dụng. Đối với năng lực của lục căn, mắt của chúng ta có thể thấy xa đến tận bờ mé của vũ trụ, đó là nói theo phương diện to lớn, nh́n theo thế giới vĩ mô. Nếu nh́n theo phương diện vi tế, sẽ có thể thấy hạt cơ bản. Các nhà khoa học hiện thời c̣n nói có cái nhỏ hơn nữa là lượng tử, c̣n gọi là tiểu quang tử, có thể thấy được! V́ thế, năng lượng của cái Thấy là chẳng có số lượng. Người Hoa nói “lớn mà chẳng ra ngoài, nhỏ mà chẳng ở trong”, đều có thể thấy, c̣n cặn kẽ hơn khoa học hiện thời. Khoa học chẳng thể nào sánh bằng Phật pháp, Lượng Tử Lực Học vẫn chưa phát hiện: Trong một hạt lượng tử c̣n có thế giới, thế giới trong ấy và thế giới bên ngoài chẳng khác nhau. Kinh đă dạy: Phổ Hiền Bồ Tát thường tiến vào thế giới bên trong vi trần, thế giới trong vi trần lại có vi trần, trong vi trần ấy lại có thế giới, trùng trùng vô tận, các nhà khoa học chẳng phát hiện điều này. V́ thế, hai câu nói ấy của cổ nhân khiến cho chúng ta cảm thấy chẳng thể nghĩ bàn. “Lớn mà chẳng ra ngoài” là nói đến điều ǵ? Nói đến Thường Tịch Quang, khi đạt đến bờ mé của thế giới sẽ trở về Thường Tịch Quang. “Nhỏ mà chẳng ở trong”, tức là bên trong c̣n có cái bên trong nữa, bên trong của cái bên trong ấy lại có cái bên trong khác, chẳng cùng tận. Trong hiện tượng nhỏ nhặt ngần ấy, nghiễm nhiên chứa đựng thông tin của khắp pháp giới hư không giới, chẳng thiếu thứ ǵ!

      V́ vậy, có khi chúng tôi nói tới khoa học kỹ thuật hiện thời, dùng tinh phiến (晶片: chip điện tử), một con chip to bằng cái móng tay, rất nhỏ. Một con chip to bằng móng tay út có thể chứa cả một bộ Đại Tạng Kinh, đúng là phi thường! Nhưng kinh Phật đă dạy chúng ta, một hạt vi trần, tức là một quang tử, bé tí xíu như thế, chẳng thấy bằng mắt thường, lại chứa đựng viên măn tin tức của khắp pháp giới hư không giới. Quư vị nói xem: Khoa học hiện thời làm sao có thể sánh bằng, thua kém rất xa! Khi tôi học Phật, tiên sinh Phương Đông Mỹ đă giới thiệu cho tôi biết Phật pháp, [cụ đă nói] Phật pháp là đỉnh cao nhất trong triết học của toàn bộ thế giới. Chúng tôi học Phật đă nhiều năm ngần ấy, nay phát hiện, trong Phật pháp có khoa học đạt đến tột đỉnh so với khoa học của toàn thể thế giới. Những vấn đề mà khoa học và triết học chẳng thể giải quyết đều được giải đáp trong Phật pháp, kỳ diệu thay! Phật pháp dùng phương pháp ǵ để giải quyết? Thiền Định. Thiền Định là ǵ? Buông xuống là được! Phật pháp dạy quư vị buông xuống, buông chấp trước xuống, buông phân biệt xuống, buông khởi tâm động niệm xuống, quư vị liền kiến tánh. Tánh là một thứ hết sức vi diệu, điều ǵ cũng chẳng phải là nó, nhưng nó có thể biến ra hết thảy vạn vật. Y báo và chánh báo trang nghiêm như kinh Phật thường nói, đều do nó biến hiện, biến hiện như thế nào và quá tŕnh biến hiện đều được giảng trong kinh rất cặn kẽ, rất minh bạch.

      Do vậy, xét từ những phương diện này, chúng ta chẳng thể không bội phục cổ nhân. Người hiện thời xem thường cổ nhân, v́ hiện thời khoa học tiến bộ, người thời cổ chẳng có khoa học, sai mất rồi! Người hiện tại thua kém cổ nhân rất xa! Khoa học kỹ thuật hiện tại phải dùng Toán Học, phải sử dụng các dụng cụ khoa học tiên tiến, cổ nhân chẳng cần, cổ nhân dùng Thiền Định. Hiện tượng đầu tiên sau khi nhập Định là thời gian và không gian chẳng có. Trong Định, có thể thấy quá khứ, mà cũng có thể thấy vị lai, có thể thấy cơi này, có thể thấy phương khác. Do chẳng có thời gian, nên chẳng có trước sau. Do chẳng có không gian, nên chẳng có khoảng cách. Quư vị thấy cả khoa học lẫn triết học đều hướng tới những điều này, nhưng chẳng làm được! Phật pháp cho biết: Từ trong Thiền Định, sẽ có thể làm được. Phật, Bồ Tát có thể làm được. Phật, Bồ Tát bảo mỗi người chúng ta đều có thể làm được. Do đó, quư vị chẳng làm được là v́ chính quư vị chẳng chịu buông xuống. Điều đầu tiên quư vị chẳng thể buông xuống là chấp trước. Nói cách khác, quư vị chẳng đạt được mức Thiền Định sơ cấp. Thiền Định cao cấp th́ không chỉ buông chấp trước xuống, mà phân biệt cũng buông xuống. Thiền Định cao nhất là Thiền Định của Pháp Thân Bồ Tát, ngay cả khởi tâm động niệm đều buông xuống, thật sự đạt tới tŕnh độ lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần mà không khởi tâm, chẳng động niệm. Cảnh giới ấy chính là t́nh huống chư Phật, Bồ Tát ứng hóa trên thế gian; đó là oai thần của Phật, Bồ Tát.

      Tiếp đó, [cụ Hoàng] trích dẫn: “Thắng Man Bảo Quật viết: Ngoại sử vật úy, mục chi vi Oai. Nội nan trắc độ, xưng chi vi Thần” (sách Thắng Man Bảo Quật[8] giảng: “Ngoài th́ khiến cho chúng sanh kiêng sợ, nên gọi là Oai, trong th́ khó thể ḍ lường bèn gọi là Thần”), giảng giải hai chữ Oai Thần. Chữ Vật () chỉ chúng sanh trong mười pháp giới. Sở dĩ Ngài (Gia Tường Cát Tạng đại sư) không dùng chữ Nhân (người), mà dùng chữ Vật; v́ nếu nói là “người”, sẽ chỉ có nhân đạo trong mười pháp giới, chẳng bao gồm những pháp giới khác. Dùng chữ Vật sẽ có phạm vi to lớn, trên là tứ thánh, dưới là lục đạo. Hữu t́nh chúng sanh trong tứ thánh lục đạo đều có cảm giác kính sợ, nên gọi là Oai, “mục chi vi Oai” [có nghĩa là như vậy]. Chúng ta kém xa Ngài về trí huệ và đức năng, nên tâm kính sợ tự nhiên nẩy sanh. “Nội nan trắc độ” [nghĩa là], đối với trí huệ, thần thông, và đạo lực của Ngài, chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng là cao bao nhiêu, sâu cỡ nào! Thật ra, đức Phật đă giảng đạo lư này rất rơ ràng, đối với oai thần của Phật như đă được hiển hiện, biểu hiện, mỗi người chúng ta có [oai thần ấy] hay không? Có, chẳng thua kém Phật, nhưng chẳng thể hiển hiện. V́ sao chẳng hiển hiện được? Do bản thân chúng ta có chướng ngại, [chướng ngại] chính là v́ có phiền năo, tập khí. Phiền năo, tập khí khiến chúng ta mê mất cái tâm thanh tịnh. Chúng ta bộp chộp, hời hợt, khiến cho cái tâm b́nh đẳng bị chôn vùi, do vậy mà mê muội, chẳng giác.

Thật ra, nếu chúng ta đă học bộ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán của quốc sư Hiền Thủ, Ngài đă giảng rất rơ ràng: Bất luận hiện tượng vật chất hoặc hiện tượng tinh thần, đối với chánh báo bèn lấy một sợi lông. Lông trên thân, chót đầu sợi lông, [được gọi] là “mao đoan” (毛端). Đối với y báo, bèn lấy một vi trần, vi trần quá nhỏ, chẳng thấy được, một hạt cát th́ quư vị thấy được, một hạt cát, cát rất mịn, giống như bột ḿ. Một hạt cát th́ quư vị trông thấy, nhưng hiện tượng dao động của nó, chúng ta chẳng nh́n thấy. Nó có [hiện tượng dao động hay không]? Có! Hiện tượng dao động có ba tính chất đặc biệt:

1) Thứ nhất là “trọn khắp pháp giới”. Sợi lông trên thân chúng ta là thật, chẳng giả. Dao động mà bất động, tức là không lay động, th́ hiện tượng ấy sẽ chẳng tồn tại. Rất khó có là hiện thời, điều này đă được các nhà khoa học Lượng Tử Lực Học khẳng định, họ nói hiện tượng vật chất là ǵ? Họ đă hiểu rơ bản chất của vật chất, [khẳng định]: Chẳng có vật chất! Vật chất là do ư niệm tích lũy liên tục sanh ra huyễn tướng. V́ thế, chẳng có hiện tượng dao động ấy th́ thứ ǵ cũng đều chẳng có, vật chất lẫn tinh thần đều chẳng có. Hết thảy hiện tượng toàn là do dao động sanh ra. Dao động vừa mới động, liền trọn khắp pháp giới, tốc độ ấy nhanh lắm! Đối với chuyện “trọn khắp pháp giới”, chúng ta hăy nghĩ xem: Ánh sáng có tốc độ đi từ mặt trời đến địa cầu, khoảng cách ấy chẳng đáng kể là xa, [nhưng phải mất thời gian] khoảng hơn tám phút, nhưng hiện tượng ấy (hiện tượng dao động của một sợi lông) vừa mới động bèn trọn khắp pháp giới. Đó là đặc tánh thứ nhất.

2) Đặc tánh thứ hai: “Có thể sanh ra vạn pháp”. Nó là cơ sở và căn bản của hết thảy vạn pháp. Tất cả hết thảy vạn pháp do hiện tượng dao động tạo thành. Lại c̣n chẳng có trước, sau, do tốc độ quá nhanh, ánh sáng chẳng thể sánh bằng, thua kém rất xa! Gần đây nhất, chúng tôi thấy một tin tức, các nhà khoa học phát hiện một thái dương hệ ngoài không gian. Họ quan sát, có người nói là nó gồm năm hành tinh, có người nói là bảy hành tinh, xoay quanh mặt trời, rất giống địa cầu, cách chúng ta một trăm hai mươi bảy năm ánh sáng (quang niên). Ánh sáng [từ bên đó chiếu đến địa cầu] phải mất một trăm hai mươi bảy năm, tốc độ ánh sáng đấy nhé! Sợi lông của chúng ta vừa động, liền trọn khắp pháp giới, tốc độ ánh sáng chẳng thể sánh bằng! Chư vị hăy suy nghĩ đi!

3) Điều sau đây rất quan trọng, đó là đặc tánh thứ ba: “Hàm dung Không Hữu” (chứa đựng Có và Không). Chúng ta thường nói “hàm dung Không Hữu”“tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”. Hàm () là ǵ? Là hư không. Bao trùm cả hư không, trong ấy chứa đựng cả hư không, dung nạp vạn hữu. Toàn thể vũ trụ đều ở trong đó. Tâm lượng trong một sợi lông của chúng ta lớn ngần ấy, nay tâm lượng của chúng ta biến thành nhỏ hẹp ngằn này, ngay cả một người c̣n chẳng thể dung nạp, quư vị nói có đáng thương xót hay chăng? Tâm lượng trong một lỗ chân lông hay một sợi lông của chúng ta đều to dường ấy, đều có thể bao trùm hư không pháp giới. Quư vị hăy nói xem: Chúng ta làm người mà đă làm thành cái dạng ǵ mất rồi? Rất khó chấp nhận, chẳng thể bào chữa được! Khoa học cận đại ngày càng liên quan mật thiết với Phật pháp, đó là chuyện tốt đẹp, đó là ǵ? Đó là những chỗ rất khó hiểu. Do vậy, chúng ta bội phục cổ nhân, cổ nhân chẳng có căn cứ khoa học, thế th́ họ hiểu bằng cách nào? Từ chỗ này, chúng ta có thể nghĩ: Tâm cổ nhân định. Cổ nhân dùng phương pháp ǵ để tin sâu chẳng ngờ những cảnh giới trong kinh Phật? Từ trong Định, họ thấy được. Tâm thanh tịnh là định, tâm thanh tịnh sanh trí huệ, có đạo lư, chẳng phải là vô lư!

      “Quang giả, quang minh dă. Tự oánh vị chi Quang, chiếu vật vị chi Minh, tức phóng quang chiếu diệu chi nghĩa” (Quang là quang minh. Tự tỏa sáng là Quang, chiếu soi vạn vật là Minh, cũng có nghĩa là phóng quang chiếu rạng ngời). Đó là “oai quang hách dịch”, “hách dịch” (赫奕) có nghĩa là h́nh trạng rất lớn. “Tự oánh” (自瑩) là bản thân có ánh sáng. Điều này là thật. Do Lượng Tử được gọi là Tiểu Quang Tử, nên có thể thấy chính nó có ánh sáng. Ánh sáng ấy giống như ánh chớp, mau hơn tia chớp. Thật ra, ánh chớp quá chậm, nên mắt thường có thể trông thấy. C̣n ánh sáng của Lượng Tử quá nhanh, mắt thường chẳng thể nh́n thấy, ắt phải nhờ vào dụng cụ, máy móc tinh vi quư vị mới có thể phát hiện. Nhưng chúng tôi đă nói, trong kinh đức Phật thường nói đến điều này, đối với bản năng (năng lực sẵn có) của chúng ta, năng lực sẵn có của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đều là khắp pháp giới hư không giới. Chúng ta thấy như vậy, mà nghe cũng như vậy. Mũi ngửi, lưỡi nếm, thân thể tiếp xúc, đều là khắp pháp giới hư không giới. Nói theo phương diện tinh thần là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, chúng ta có thể tiếp nhận. Tất cả hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới hư không giới, các chúng sanh ấy là các hiện tượng do các duyên ḥa hợp mà sanh khởi, nên gọi là chúng sanh. Bao gồm những ǵ? Bao gồm động vật, thực vật, khoáng vật và các hiện tượng tự nhiên, dùng danh từ này (“chúng sanh”) để bao gồm toàn bộ. Những hiện tượng ấy có cùng một Thể, lại c̣n tương thông lẫn nhau. V́ thế, nếu quư vị tu hành đạt đến một mức độ càng cao, thân tâm càng linh mẫn, những tin tức cực kỳ vi tế trong các thế giới phương khác, quư vị đều có thể cảm nhận được. Thân quư vị giống như một cỗ máy tiếp nhận sóng điện, đồng thời bản thân chúng ta cũng phát sóng ra ngoài, nên khắp pháp giới hư không giới giống hệt như mạng Internet. Chẳng phải là một ḿnh chúng ta có thể phát xạ, mà ư niệm trong đầu óc của chúng ta cũng có thể phát xạ. Đối với mỗi tế bào, phải hiểu tế bào do các phân tử hợp thành, phân tử do các nguyên tử hợp thành, nguyên tử do các điện tử hợp thành, sau này cũng nói đến quang tử, tiểu quang tử, lượng tử, trên thân có bao nhiêu [hạt như vậy] đều có thể phát xạ, đều có thể tiếp thu. Đó là chân tướng sự thật.

      Nhưng nay chúng ta đang phát xạ mà chẳng cảm nhận được, khi tiếp nhận cũng chẳng cảm nhận, hồ đồ đến mức cho là chuyện dĩ nhiên, nên gọi là mê hoặc, điên đảo. Đức Phật nói, Phật có năng lực ấy, Pháp Thân Bồ Tát có năng lực ấy, tức là các Ngài đă hoàn toàn khôi phục năng lực ấy. Từ chỗ này, chúng ta mới hiểu chúng ta đă mê đến mức độ nào, v́ sao chúng ta chôn vùi bản năng? Đức Phật nói: Thật ra, bản năng chẳng mất đi, mà là mê mất, chỉ cần quư vị giác ngộ, nó bèn hiện tiền. Nay chúng ta đă hiểu, đă giác ngộ, nhưng giác ngộ th́ vẫn chưa được, quư vị chưa buông xuống. Buông xuống là thật sự giác ngộ; chưa buông xuống là giả giác ngộ. Buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, quư vị thật sự giác ngộ. Quư vị thấy trong hiện tại, chúng ta khởi tâm động niệm vẫn là có tự tư tự lợi, vẫn có thị phi, nhân ngă, làm sao gọi là giác ngộ cho được? Chúng ta cách biệt giác ngộ rất xa, nhưng chúng ta cũng rất khó có! Từ kinh điển, chúng ta có được những tin tức về chân tướng sự thật ấy, điều này khá khó khăn. Kinh điển bảo cho chúng ta biết các chân tướng sự thật ấy, nay chúng ta phải tu tập, y giáo tu hành th́ mới có thể thật sự khế nhập cảnh giới. Những ǵ được nói trong kinh điển toàn là trí huệ và đức năng của chính chúng ta. Đức Phật giảng kinh chẳng phải là giảng cho chúng ta nghe. Nếu quư vị nói Ngài giảng cho chúng ta nghe th́ sai mất rồi, chúng ta đă khinh nhờn Phật! Phật dạy chúng ta chứng đắc, giảng cho quư vị nghe, để quư vị nương theo phương pháp ấy mà cầu chứng, thật sự có thể chứng đắc. Sau khi quư vị đă chứng đắc, sẽ hoàn toàn giống với những ǵ đức Phật đă giảng.

Những thứ rất sâu, rất thần kỳ, rất kỳ đặc này, đúng là khó khăn, nhưng chẳng phải là nói dối. Quư vị thấy sau khi đă đoạn vô minh, hăy c̣n có tập khí, phải đoạn sạch tập khí, nhưng chẳng có cách nào đoạn tập khí, cứ để mặc nó, tự nhiên sẽ chẳng c̣n nữa! Cứ để lâu ngày, nó sẽ nhạt bớt. Thời gian bao lâu? Ba đại A-tăng-kỳ kiếp, tập khí ấy mới hoàn toàn chẳng có, quư vị biết [đoạn trừ] tập khí có bao nhiêu khó khăn! Nhưng chỉ cần đoạn vô minh, tập khí hăy c̣n vẫn chẳng sao cả, nó chẳng trở ngại sự, đối với trí huệ, thần thông, đạo lực, tự thọ dụng và tha thọ dụng trong tự tánh đều chẳng có chướng ngại mảy may. Đây cũng chẳng phải là một chuyện dễ dàng, dễ dàng nhất vẫn là sanh về thế giới Cực Lạc, dễ dàng hơn nhiều! Tối thiểu chúng ta có thể tu tập đạt tới cảnh giới như Sơ Tổ Tịnh Tông là Huệ Viễn đại sư. Viễn Công đại sư niệm Phật, trong đời Ngài đă thấy thế giới Cực Lạc trong Định, niệm Phật nhập Định, nhưng chưa hề nói với ai, chúng ta phải học theo điều này. Lần thấy [thế giới Cực Lạc] khi văng sanh là lần cuối cùng, tức là lần thứ tư, Ngài bảo mọi người, ta sắp tới thế giới Cực Lạc, ta đă thấy thế giới Cực Lạc. Người khác hỏi Ngài: “T́nh trạng như thế nào?” [Ngài đáp]: “Giống hệt như kinh đă nói”.

Thời Ngài, kinh Tịnh Độ là một quyển, tức kinh Vô Lượng Thọ. Chúng ta muốn biết bản đó là bản nào, nhưng trong thời đó đă có mấy bản dịch. Viễn Công đại sư là người sống vào thời Đông Tấn, [vào thời ấy], bản dịch của ngài Khang Tăng Khải đă xuất hiện, bản dịch Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh đời Hán [cũng có]. Có thể là hai ba bản dịch Ngài đều đọc, nhưng các bản dịch đời Đường, đời Tống quyết định chẳng có, v́ Ngài sống trước thời Đường, Tống. Kinh Di Đà c̣n chưa được dịch ra. Do vậy, kinh bổn căn cứ để Huệ Viễn đại sư lập Đông Lâm Niệm Phật Đường Phật ở Lư Sơn sớm nhất chính là quyển kinh này. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật c̣n chưa phiên dịch, kinh Di Đà chưa xuất hiện, chỉ có ḿnh kinh này. Ngài nói “giống hệt như trong kinh đă nói”, tức là giống như trong kinh Vô Lượng Thọ đă nói. Nay chúng ta có bản hội tập tốt đẹp, toàn bộ những điều được nói trong năm bản dịch đều đă có, bản này hoàn chỉnh nhất. Chúng ta cũng có thể giống như Viễn Công đại sư, thật sự thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới, chính ḿnh có tín tâm quyết định văng sanh. Có thể sanh về Tây Phương thế giới hay không, kinh đă nói rất hay: Ba điều kiện là Tín, Nguyện, Hạnh. Nay chúng tôi c̣n thêm vào ba căn nữa, v́ sao Ngài chẳng nói [mà nay chúng tôi lại thêm thắt]? Người thuở ấy thường là ai nấy đều có đủ ba căn, nên chẳng cần phải nói! Ba căn ấy đă học từ bé, do cha mẹ trong nhà dạy, ai nấy đều có, thâm căn cố đế. Chẳng giống như trong thế giới hiện thời, thế giới hiện thời chẳng có ba căn. Chẳng có ba căn th́ Tín, Nguyện, Hạnh chẳng vững vàng, nên người tu Tịnh Độ đông đảo, văng sanh ít ỏi. Thuở ấy, họ tu Tịnh Độ, đúng là “vạn người tu, vạn người đến”, rất ít ai nói: “Tu Tịnh Độ chẳng thể văng sanh”, v́ quá ít, hiện thời quá nhiều! Trước kia, thầy Lư bảo chúng tôi: “Một vạn người tu Tịnh Độ niệm Phật, thật sự văng sanh chỉ có ba bốn người”. Do nguyên nhân ǵ? Chẳng có căn! V́ sao căn là trọng yếu? Vừa mở kinh điển ra, “thiện nam tử, thiện nữ nhân”, quư vị chẳng phải thiện nam tử, mà cũng chẳng phải thiện nữ nhân, làm sao có thể văng sanh cho được? Vun trồng bền vững ba căn, quư vị sẽ là thiện nam tử, thiện nữ nhân, chuyện là như vậy đó. Người thuở trước chẳng cần nói đến chuyện vun trồng căn cội, do ai nấy đều có căn. Hiện tại, chẳng thể không nhắc đến chuyện này. Không đề cập chuyện này, sẽ chẳng thể văng sanh. Có ba căn ấy th́ Tín, Nguyện, Hạnh của quư vị đều có căn. Tín có căn, Nguyện có căn, Hạnh có căn, lẽ đâu quư vị chẳng văng sanh! So sánh giữa thời này và thuở ấy, khác nhau!

Đối với quang minh, chính ḿnh có ánh sáng th́ gọi là Quang, quang chiếu sáng vật bên ngoài th́ gọi là Minh. Đó chính là ư nghĩa của câu “phóng quang chiếu diệu”. “Quang minh hữu nhị dụng”, [nghĩa là quang minh] có hai thứ tác dụng: Thứ nhất là “phá ám” (phá tối tăm), thứ hai là “biểu pháp”. “Nhân Phật chi quang minh, chánh thị trí huệ chi tướng” (do quang minh của Phật đúng là tướng trí huệ). V́ vậy, quang minh là một tướng. V́ sao các nhà Lượng Tử Lực Học hiện thời phát hiện lượng tử có ánh sáng? Ánh sáng do đâu mà có? Ánh sáng do trí huệ mà có. Đức Phật dạy: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Nếu trong tự tánh chẳng có trí huệ, sẽ chẳng có quang. Trong tự tánh có trí huệ viên măn; khi mê, nó trọn chẳng bị mất đi, nên vẫn là phóng quang. Sự phóng quang ấy là ǵ vậy? Sự phóng quang ấy được khoa học hiện tại gọi là “dao động”, v́ ánh sáng chỉ xẹt thoáng qua. Di Lặc Bồ Tát đă nói rất rơ ràng, trong một cái khảy ngón tay có bao nhiêu [tế niệm]? Chớp nháng mấy lần? Ba trăm hai mươi triệu lần! Quư vị thấy trong một cái khảy ngón tay [là như vậy đó]. Tôi tin là có người khảy nhanh hơn tôi. Tuổi tôi đă già, khảy chẳng lẹ. Nếu khảy mau, đại khái là một giây có thể khảy năm lần. Nếu khảy năm lần, phải là một ngàn sáu trăm triệu. Trong một giây là một ngàn sáu trăm triệu lần, làm sao quư vị có thể thấy cho được?

      Quang ấy chính là mỗi một lần [tế niệm sanh diệt] th́ là một lần chớp nháng. Một giây là một ngàn sáu trăm triệu lượt, chẳng dễ dàng, nhưng đă bị các nhà khoa học phát hiện. Đó là Bát Nhă quang trong tự tánh đang động, hễ động, nó liền biến thành vật chất, biến thành hiện tượng tinh thần. Do trong tự tánh có thấy, nghe, hay, biết; sau khi mê, thấy, nghe, hay, biết biến thành ǵ? Biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Trong Thọ có thấy, nghe, hay, biết, trong Tưởng cũng có thấy, nghe, hay, biết. Trong Hành và trong Thức thảy đều trọn đủ. Chúng ta có thể cảm nhận Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nhưng chẳng thể cảm nhận thấy, nghe, hay, biết, v́ chúng vi tế! Chúng là Tánh Đức. Các nhà khoa học chẳng kiến tánh, nên chẳng t́m thấy căn nguyên này. Lượng Tử do đâu mà có? Từ trong Không sanh ra Có, họ chỉ thấy điều ấy. Xác thật là từ trong Không sanh ra Có, tuy nhiên, nó chớp nháng một chút rồi lại chẳng c̣n. V́ thế, chúng ta thấy vật chất là tướng liên tục, chúng do ư niệm tích lũy, họ (các nhà khoa học) nói là ư niệm tích lũy, do tích lũy liên tục bèn sanh ra huyễn tướng. Hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần đều là như vậy. Ở đây, đă nói rơ ràng, quang minh chính là tướng trí huệ.

      “Hách giả, minh dă. Dịch giả, thịnh dă” (Hách là sáng, Dịch là tràn trề), [ư nói] quang minh rất lớn, hết sức rạng rỡ. “Cố tri oai quang hách dịch, biểu Phật sở phóng chi quang, hùng mănh hữu oai, minh diệu thịnh đại” (V́ vậy, câu “oai quang hách dịch” hàm ư quang minh do đức Phật phóng ra hùng mănh, có oai thế, sáng chói, số lượng rất nhiều). Phật quang chiếu khắp! “Thử hạ dĩ dung kim dụ chi” (Tiếp theo đó, dùng ngay h́nh ảnh vàng được nung chảy để sánh ví): Kế đó là vận dụng tỷ dụ. “Như kim dung tụ” (Như khối vàng được nung chảy), vàng sau khi được nung chảy, nh́n rất đẹp. Bản thân vàng rất đẹp, lại dùng nhiệt độ cao để nung chảy vàng thành chất lỏng, ánh vàng nung vô cùng xinh đẹp, dùng điều này làm tỷ dụ. “Kim sắc hoảng diệu, dung kim di thậm. Dụ Phật quang minh, như dung kim tụ tập, cố viết như dung kim tụ” (Sắc vàng vốn đă chói sáng, khi bị nung chảy c̣n chói lọi hơn nữa. Sánh ví quang minh của Phật như vàng bị nung chảy ra đọng lại, cho nên nói là “như khối vàng nung”). Chúng ta đọc những điều này, quan trọng nhất là biết Phật và chúng ta chẳng hai, chẳng khác, những thứ tốt đẹp nơi Ngài chúng ta thảy đều có phần, hay ở chỗ này! Nói theo tôn giáo, [những phẩm chất, đức năng mà] Thần có, chúng ta chẳng có, vĩnh viễn phải phục tùng thần. Phật pháp chẳng phải vậy, ai nấy đều là Phật, b́nh đẳng. Những ǵ mà đức Phật có như trong kinh Phật đă nói, trong tự tánh của chúng ta đều có toàn bộ, chỉ cần chúng ta buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, sẽ chứng đắc toàn bộ. Đây là chỗ thù thắng khôn sánh của Phật pháp, là chỗ hoàn toàn khác biệt giữa Phật pháp và các tôn giáo, chúng ta chớ nên không biết, tuyệt đối chẳng phải là mê tín. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tới chỗ này.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 69 hết

 



[1] Đại Pháp Cự Đà La Ni Kinh gồm 20 quyển, 52 phẩm, do ngài Xà Na Quật Đa dịch vào đời Tùy. Do Thiện Oai Quang thiên tử thỉnh vấn pháp Đà La Ni, đức Phật bèn nhập Đại Lực Trang Nghiêm Tam Muội, thuật lại chuyện chư Như Lai đă phóng quang nói kinh này trong đời quá khứ, và cách hành tŕ các pháp Đà La Ni.

[2] Thích Tăng Triệu (394-414) là đệ tử đắc ư và nổi danh nhất của La Thập đại sư. Ngài họ Trương, người xứ Kinh Triệu (Trường An), nổi tiếng là một nhà lư luận và tư tưởng của Đại Thừa Phật giáo tại Trung Hoa. Ngài được coi như đă có công bản địa hóa tư tưởng Trung Quán của Bát Nhă và mạnh dạn dùng những khái niệm sẵn có trong triết học Trung Hoa để diễn đạt tư tưởng Bát Nhă. Trước khi học Phật, Ngài từng học Nho, đặc biệt yêu thích Lăo Trang, nhưng vẫn chưa cảm thấy thỏa măn. Đến khi đọc kinh Duy Ma Cật, tỉnh ngộ, bèn xuất gia, nghiên cứu Phật học càng tinh thâm, chưa đầy hai mươi tuổi mà danh tiếng đă vang rền khắp nước. Về sau, nghe ngài La Thập đến xứ Cô Tạng (nay thuộc huyện Vũ Oai, tỉnh Cam Túc), Sư t́m dến, vô cùng ngưỡng mộ, tận lực theo hầu. Khi ngài La Thập đến Trường An, Ngài xin tham gia dịch trường, cùng với các vị Đạo Dung, Tăng Duệ và Đạo Sanh được gọi là Quan Trung Tứ Kiệt. Ngài đặc biệt tinh thông Trung Quán, nên được người đương thời tôn xưng là bậc Giải Không Đệ Nhất. Ngài cũng tham gia dịch trường của ngài Phật Đà Da Xá để dịch Tứ Phần Luật và Trường A Hàm Kinh. Tiếc là Ngài mất rất sớm. Pháp sư Ấn Thuận hết sức ngưỡng mộ ngài Tăng Triệu, tôn xưng Ngài là đệ nhị tổ của Tam Luận Tông.

[3] Câu này hơi khó hiểu nên chúng tôi mạn phép vẽ rắn thêm chân như sau: Theo Duy Thức Học, Tướng Phần (vật chất) phát sanh từ Kiến Phần (cái tâm phát sanh tác dụng nh́n thấy). Luận điểm này được diễn tả bằng câu: “Kiến th́ nhất định phải thấy, hễ trông thấy bèn có huyễn tướng”. Tiếp đó, cổ nhân dùng một tỷ dụ giả thiết như sau: Trừng mắt nh́n hồi lâu, do mắt mỏi, sẽ thấy các đốm sáng chao lượn trước mắt”. Tức là do từ cái nh́n đó mà có huyễn tướng xuất hiện. Ḥa thượng nói tỷ dụ này không phù hợp lắm (v́ mắt mỏi mà có tướng hoa đốm, chẳng liên quan đến vọng tâm), vẫn chưa giải thích rơ v́ sao từ Kiến Phần sanh ra Tướng Phần, nên mới bảo là: “Dùng cách ấy để nói th́ không khoa học”. Ḥa thượng cho rằng: Do Kiến Phần (tác dụng của tâm thức, tức là vọng tâm), vọng tâm thường sanh khởi ư niệm, vật chất do ư niệm tích lũy tạo thành. Đấy chính là đă nói rơ Kiến Phần sanh ra Tướng Phần.

[4] Chùa Quán Tông ở thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang, được sáng lập vào năm 1081 bởi pháp sư Giới Nhiên, ngài Giới Nhiên là đồ tôn đời thứ năm pháp sư Tri Lễ (tổ thứ mười bảy của tông Thiên Thai), thoạt đầu chùa mang tên Thập Lục Quán Đường trực thuộc chùa Diên Khánh. Chùa gần như hoang phế dưới thời Quang Tự, ngài Đế Nhàn đă trùng tu chùa này, khôi phục tông phong Thiên Thai. Chùa trải qua nhiều nỗi thăng trầm: Năm 1951 bị nhà nước tịch thu biến thành trường huấn luyện cán bộ, rồi trường Đảng vào năm 1958, phá bỏ rất nhiều kiến trúc trong chùa. Đến năm 1993, mới được trả lại cho Phật giáo, và đưa về trực thuộc chùa Diên Khánh như cũ.

[5] Tứ Thiên Hạ là danh xưng khác của Tứ Bộ Châu (Đông Thắng, Tây Ngưu, Diêm Phù và Bắc Câu). Gọi là Tứ Thiên Hạ v́ tầng trời ngay trên Tứ Bộ Châu là tầng trời của bốn vị Thiên Vương (Đa Văn, Quảng Mục, Tŕ Quốc, Tăng Trưởng). “Tứ thiên hạ vi trần” nghĩa là số vi trần trong một tứ thiên hạ.

[6] Vua Vũ họ Tự, thị tộc Hạ Hầu, tên là Vũ, tự Văn Mạng, là cháu đời thứ tám của Hiên Viên Hoàng Đế, được phong tước Hạ Bá đời vua Nghiêu, nên sử thường gọi ông là Bá Vũ hay Hạ Vũ. Cha vua Vũ là Cổn, được vua Nghiêu phong thái ấp ở Tung Sơn, sai trị thủy (chống nạn lụt). Ông Cổn dùng biện pháp đắp đê ngăn nước, nào ngờ lụt dữ dội hơn, bị phạt. Vua lại sai ông Vũ đảm nhiệm. Ông Vũ trị thủy thành công, được vua Thuấn nhường ngôi, lập ra vương triều Hạ, đóng đô ở Dương Thành, sau đổi sang Âm Thành. Khải là con của Hạ Vũ và Đồ Sơn Thị. Do chồng bận rộn trị thủy đến nỗi ba lần đi qua nhà, không ghé vào thăm, bà Đồ Sơn Thị sáng tác ra khúc hát Hầu Nhân Hề Y để tỏ ḷng nhớ chồng. Khải thiên đô sang Dương Địch, và truyền ngôi cho con là Thái Khang. Nhà Hạ truyền được mười chín đời.

[7] Thương Thang là tên vị vua sáng lập nhà Thương, ông họ Tử, tên Lữ (Lư), ông là thủ lănh của bộ tộc Thương. Do vậy, khi lật đổ vua Kiệt nhà Hạ, ông đă đặt tên cho vương triều mới là Thương. Sách cổ chỉ ghi ông được gọi với nhiều tên như Vũ Thang, Thiên Ất, Thành Thang, Thành Đường, Đại Ất, Cao Tổ Ất v.v… nhưng không giải thích v́ sao Thương Thang có các tên gọi đó.

[8] Sách Thắng Man Bảo Quật do ngài Cát Tạng viết vào đời Tùy, là tác phẩm chú giải Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh tường tận nhất. Đầu tiên, Ngài dùng Ngũ Trùng Huyền Nghĩa để giải thích tựa đề, thuật duyên khởi, biện định tông chỉ v.v… Kế đó, tán thán công đức của chân thật nghĩa, giảng giải vô biên thánh đế, tự tánh thanh tịnh, xiển dương tông chỉ, yếu nghĩa trong kinh Thắng Man. Để tăng tính thuyết phục trong lập luận, Ngài đă dẫn hơn mười mấy bộ kinh luận như Pháp Hoa, Duy Ma, Đại Trí Độ Luận v.v… và các điển tịch khác như Tượng Pháp Quyết Nghi Kinh, Xà Vương Sám Hối Kinh v.v… (Sở dĩ gọi các bộ này là điển tịch v́ chúng không nằm trong Đại Tạng Kinh), cũng như biện luận các nhận định của những bộ chú giải khác như Thắng Man Kinh Chú Sớ Yếu Nghĩa...